Ta chào Việt Bắc, về xuôi
Núi xa khoác áo màu xanh nhất,
Suối gần hát tiếng tuyệt vời trong…
Chim rừng ríu rít ca tha thiết,
Buổi tiễn đưa, Việt Bắc đẹp vô cùng.
Ta chào Việt Bắc, ta xuôi,
Bước chân lưu luyến, nụ cười tình chung.
Tám năm đường tỏ ngõ thông,
Quen bao đỉnh dốc, đầu sông, ngọn nguồn.
Tám năm chung sống vuông tròn,
Núi rừng nuôi dưỡng đứa con đồng bằng
Cây cây, núi núi trùng trùng,
Quê hương cách mạng oai hùng, thẳm nghiêm.
Dưới cây, trong núi, ngày đêm
Trí người, sức óc rèn nên thép đồng.
Đúc thành vũ khí vô song,
Cứng trong kháng chiến, bền trong hoà bình.
Tấm lòng Việt Bắc đinh ninh
Của trao ta giữ như hình bóng ta.
*
* *
Ta nhìn tảng đá, nhìn con suối,
Nhìn khóm hoa mua, đám cỏ may,
Nhìn bản đứng trong thung lũng hẹp,
Nhớ chung phong cảnh sống bao ngày.
Chiều tiếng mõ trâu khua lốc cốc,
Đêm nghe chảy nước giã đâu đây…
Ào ào suối lũ, ầm ầm thác,
Có lúc lòng khe lại cạn bày…
Lúc ẩm hơi rừng, cơn sốt rung.
Khi đêm đông lạnh, bếp ta hồng.
Đốt từng cây gỗ tha hồ sưởi,
Sắn nướng vàng rồi, ta bẻ chung.
Lách tách lửa reo, câu chuyện nở,
Trường kỳ kháng chiến vẫn cười tung!
Anh em đồng chí quây đấu lại,
Bác ở bên ta, Đảng ấm lòng.
*
* *
Ta chào Việt Bắc, ta xuôi,
Quê hương cách mạng muôn đời suy tôn
Mẹ nghèo vẫn cố nuôi con:
Lúc bùi măng nứa, khi ngon củ mài,
Sẻ từng hạt muối cắn đôi,
Nhà sàn chung ở, chăn sui đắp cùng.
Khi lên: non nớt, ngại ngùng,
Khi về: thép ở trong lòng đã tôi
Xưa nay ly biệt ngậm ngùi,
Giờ đây đưa tiễn là vui lên đường.
Rời quê hương, đến quê hương,
Thủ đô năm cánh sao vàng chờ ta.
Tám năm Hà Nội cách xa,
Tấm lòng Việt Bắc cùng ta trở về.
10-1954
*
Lời Chào Việt Bắc – Một Hành Trình Không Bao Giờ Kết Thúc
Có những cuộc chia tay mang nỗi buồn lưu luyến, nhưng cũng có những cuộc chia tay đầy hân hoan vì một hành trình mới đang mở ra. Xuân Diệu trong Ta chào Việt Bắc, về xuôi không viết về một cuộc chia tay bình thường, mà là một lời giã biệt vừa thắm thiết, vừa đầy tự hào của những người con kháng chiến rời Việt Bắc để trở về xuôi sau tám năm gắn bó. Việt Bắc – vùng đất cách mạng đã nuôi dưỡng, chở che, hun đúc ý chí chiến đấu của bao chiến sĩ – giờ đây trở thành một phần trong tâm hồn họ, một dấu ấn không thể phai mờ.
Việt Bắc – Nơi ghi dấu một thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng
Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu khắc họa vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng của Việt Bắc:
“Núi xa khoác áo màu xanh nhất,
Suối gần hát tiếng tuyệt vời trong…”
Thiên nhiên Việt Bắc không chỉ là cảnh sắc mà còn là người bạn đồng hành của những người chiến sĩ. Dòng suối reo như tiếng hát, núi rừng xanh thẳm như tấm áo ôm trọn những người con cách mạng. Vẻ đẹp ấy càng trở nên lung linh trong giờ phút chia tay, khi tất cả hiện lên với một sự thân thuộc, trìu mến đến vô cùng.
Nhưng Việt Bắc không chỉ là thiên nhiên, mà còn là nơi nuôi dưỡng, hun đúc con người. Tám năm kháng chiến là tám năm gắn bó máu thịt với từng đỉnh núi, con suối, bản làng. Chính nơi đây, những chiến sĩ đã được nuôi dưỡng bằng tinh thần kiên cường, bằng tình quân dân gắn bó:
“Núi rừng nuôi dưỡng đứa con đồng bằng
Cây cây, núi núi trùng trùng,
Quê hương cách mạng oai hùng, thẳm nghiêm.”
Việt Bắc là nơi hun đúc ý chí, là mái nhà của những người con xa quê vì đất nước. Những ngày tháng kháng chiến gian khổ đã rèn giũa nên ý chí thép, biến những con người bình dị thành những chiến sĩ kiên cường.
Tấm lòng Việt Bắc – Yêu thương và sẻ chia
Kháng chiến là gian lao, nhưng trong gian lao, tình người lại càng sâu sắc hơn bao giờ hết. Xuân Diệu dành những câu thơ chân thành để nhắc về tình quân dân, về sự cưu mang, đùm bọc của Việt Bắc:
“Mẹ nghèo vẫn cố nuôi con:
Lúc bùi măng nứa, khi ngon củ mài,
Sẻ từng hạt muối cắn đôi,
Nhà sàn chung ở, chăn sui đắp cùng.”
Những hình ảnh mộc mạc ấy không chỉ là chuyện cơm ăn áo mặc, mà là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, của sự sẻ chia trong những ngày tháng gian khó. Một miếng cơm, một manh áo ở Việt Bắc không chỉ là vật chất, mà còn là tình nghĩa, là sức mạnh để những người chiến sĩ vững bước trên con đường cách mạng.
Không chỉ chia sẻ vật chất, Việt Bắc còn là nơi tôi luyện lòng người. Ngày đầu lên Việt Bắc, những chiến sĩ vẫn còn “non nớt, ngại ngùng”, nhưng khi rời đi, họ đã trở thành những con người trưởng thành, mang trong mình ý chí thép:
“Khi lên: non nớt, ngại ngùng,
Khi về: thép ở trong lòng đã tôi.”
Việt Bắc không chỉ là nơi che chở, mà còn là nơi rèn giũa, là ngọn lửa hun đúc tinh thần cách mạng.
Lời chào Việt Bắc – Một hành trình mới bắt đầu
Khác với những cuộc chia ly đầy nước mắt, lời giã biệt của Xuân Diệu lại mang một niềm vui lớn lao. Đó không phải là sự chia tay vĩnh viễn, mà là bước chuyển mình của lịch sử. Những người con kháng chiến trở về xuôi, mang theo cả tấm lòng Việt Bắc, mang theo niềm tin vào một ngày mai rực rỡ:
“Rời quê hương, đến quê hương,
Thủ đô năm cánh sao vàng chờ ta.”
Họ rời Việt Bắc, nhưng không hề rời xa tinh thần Việt Bắc. Việt Bắc đã trở thành một phần của họ, là ngọn nguồn sức mạnh để tiếp tục con đường kiến thiết đất nước trong hòa bình.
Lời kết
Ta chào Việt Bắc, về xuôi không chỉ là một bài thơ giã biệt, mà còn là một bản hùng ca về tinh thần kháng chiến, về tình nghĩa quân dân, về sức mạnh của một dân tộc kiên cường. Qua từng câu thơ, Xuân Diệu không chỉ ghi lại một dấu mốc lịch sử, mà còn khẳng định một chân lý: Dù đi đâu, dù thời gian có trôi qua, Việt Bắc mãi là một phần trong trái tim của những người con cách mạng. Và hành trình từ Việt Bắc về xuôi không phải là sự kết thúc, mà chính là sự khởi đầu cho một tương lai mới, một đất nước độc lập, tự do và phát triển.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý