Cảm nhận bài thơ: Ta đi tới Mạc Tư Khoa – Xuân Diệu

Ta đi tới Mạc Tư Khoa

 

Đường đi tới Mạc Tư Khoa
Qua Hồng Hà, qua Dương Tử, Hoàng Hà.
Trung Hoa vĩ đại
Giao hoà Hà Nội – Mạc Tư Khoa.

Đường đi tới Mạc Tư Khoa
Mênh mông đất rộng, bao la sông dài.
Máy bay đưa tận ngang trời,
Đường xe lửa phóng liên hồi ngày đêm.

Mạc Tư Khoa!
Nói đến tên, đã sung sướng chan hoà;
Yêu trong ảnh, huống nữa là đi đến!
Trái đất đi giữa tinh cầu, hãnh diện
Trên mình có Mạc Tư Khoa;
Có Liên Xô, nước xã hội của ta,
Không người đói, không còn người dưới ách.
Trên điện Kremlinh
Ngôi Sao Đỏ của Tháng Mười hiển hách,
Lửa bừng cao trong giông tố đấu tranh,
Ngọn hải đăng trên mặt biển hoà bình.

Ta đi tới Mạc Tư Khoa phía trước,
Cơm áo, mặt trời, nụ cười, suối nước,
Mộng nghìn xưa thành sự thực nên thơ.
Mỗi người tâm niệm ước mơ
Trong đời được thấy Liên Xô một lần;
Nghe Mạc Tư Khoa mỗi phút mỗi gần,
Trái tim ta rạng, tinh thần ta trong.
Bánh xe lửa quay vòng thép sáng,
Cánh tàu bay lướt áng mây xanh;
Đường rút ngắn, gió bay nhanh,
Bốn phương quây lại Kinh thành Ngôi sao.
Người chưa thấy ngẩng cao mong ngóng;
Kẻ thấy rồi lồng lộng thêm tin;
Người đang đi tới – trông lên
Chưa xem lầu điện, chưa nhìn dòng sông,
Đã giơ tay đón ánh hồng,
Nhìn Ngôi Sao Đỏ ở trong tâm hồn.

Mười năm trước, cuộc ta đời tăm tối,
Ngàn trùng đêm xa lối Mạc Tư Khoa;
Dân tộc ta mất nước, tan nhà;
Ta u uất nghẹn lời ca giữa cổ.
Đường tranh đấu có Ngôi Sao Đỏ,
Nước ta nay đã một nửa trời hồng;
Dân ta thề dẹp biến nốt đêm đông;
Đứa con nước Việt được lên đường rực rỡ
Tới Bắc Kinh, cửa Thiên An tới đó,
Tới đời vui; tới Mông Cổ tươi cười…
Mạc Tư Khoa! Tới đây rồi!
Muốn hôn mảnh đất sáng ngời Liên Xô.


9-1955

*

Hành Trình Đến Mạc Tư Khoa – Hành Trình Của Khát Vọng

Mạc Tư Khoa! Hai tiếng gọi vang lên trong thơ Xuân Diệu không chỉ là tên của một thủ đô, mà còn là biểu tượng của khát vọng, của ước mơ, của niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Ta đi tới Mạc Tư Khoa không đơn thuần là bài thơ ghi lại một chuyến hành trình, mà là bản hùng ca rực rỡ của một dân tộc vừa thoát khỏi đêm dài nô lệ, đang vươn lên trong ánh sáng của độc lập và chủ nghĩa xã hội.

Mạc Tư Khoa – Ngọn hải đăng của thời đại

Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, Xuân Diệu đã vẽ ra một hành trình dài nhưng tràn đầy phấn khích, một hành trình không chỉ vượt qua không gian địa lý, mà còn là hành trình của lịch sử, của khát vọng và lòng tin:

“Đường đi tới Mạc Tư Khoa
Qua Hồng Hà, qua Dương Tử, Hoàng Hà.
Trung Hoa vĩ đại
Giao hoà Hà Nội – Mạc Tư Khoa.”

Mạc Tư Khoa không phải là một điểm đến đơn độc, mà là nơi hội tụ của những dân tộc cách mạng, của những con người cùng chung lý tưởng. Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô – ba quốc gia nối liền bằng những dòng sông, những con đường, và quan trọng nhất, bằng tinh thần đoàn kết đấu tranh vì hòa bình, độc lập.

Mạc Tư Khoa không chỉ là thủ đô của Liên Xô, mà còn là biểu tượng của một thế giới mới, nơi không còn áp bức, không còn người đói rét, nơi “Ngôi Sao Đỏ của Tháng Mười hiển hách” luôn tỏa sáng như ngọn hải đăng dẫn đường:

“Ngọn hải đăng trên mặt biển hoà bình.”

Khát khao được đặt chân lên miền đất của lý tưởng

Như một người con từ lâu đã mong ngày gặp lại quê hương, Xuân Diệu thể hiện niềm háo hức tột cùng khi nghĩ đến việc được đến Mạc Tư Khoa:

“Nói đến tên, đã sung sướng chan hoà;
Yêu trong ảnh, huống nữa là đi đến!”

Người Việt Nam lúc bấy giờ – những người vừa bước qua cuộc kháng chiến gian khổ, vừa giành lại được quyền tự do – đều mang trong tim một giấc mơ về Liên Xô. Đó không chỉ là sự ngưỡng mộ, mà còn là niềm tin vào một tương lai tươi sáng.

Hành trình đến Mạc Tư Khoa không chỉ là hành trình của một cá nhân, mà là hành trình của cả dân tộc, của ước mơ được sống trong hòa bình, được xây dựng cuộc đời mới:

“Mỗi người tâm niệm ước mơ
Trong đời được thấy Liên Xô một lần;”

Những câu thơ ấy không chỉ là ước mong của riêng Xuân Diệu, mà còn là tiếng lòng chung của cả một thế hệ đang hướng về tương lai.

Từ đêm tối mất nước đến ngày rực rỡ ánh hồng

Không chỉ nói về niềm vui, Xuân Diệu còn nhắc lại những tháng ngày tăm tối khi đất nước còn chìm trong ách thống trị, khi “ngàn trùng đêm xa lối Mạc Tư Khoa”. Ngày ấy, khát vọng được đến với Liên Xô, được hòa chung vào dòng chảy của thế giới mới, vẫn còn xa vời:

“Mười năm trước, cuộc ta đời tăm tối,
Ngàn trùng đêm xa lối Mạc Tư Khoa;
Dân tộc ta mất nước, tan nhà;
Ta u uất nghẹn lời ca giữa cổ.”

Nhưng giờ đây, con đường ấy đã mở ra. Từ một đất nước bị chia cắt, từ một dân tộc bị áp bức, giờ đây, “đứa con nước Việt” đã có thể ngẩng cao đầu, đã có thể “lên đường rực rỡ” để đến với Mạc Tư Khoa, đến với Liên Xô – nơi mà cách mạng tháng Mười đã làm thay đổi số phận của biết bao con người.

Và khi đặt chân đến miền đất hứa ấy, cảm xúc vỡ òa trong niềm vui và lòng kính yêu:

“Mạc Tư Khoa! Tới đây rồi!
Muốn hôn mảnh đất sáng ngời Liên Xô.”

Lời kết

Ta đi tới Mạc Tư Khoa không chỉ là bài thơ về một chuyến đi, mà còn là một bản tuyên ngôn về lý tưởng, về niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, về sự gắn kết giữa các dân tộc cùng chung chí hướng. Bằng ngôn từ tràn đầy cảm xúc, Xuân Diệu không chỉ kể lại hành trình của riêng mình, mà còn nói lên khát vọng của cả một thế hệ, của cả một dân tộc đang vươn lên sau những năm dài đau thương.

Bài thơ khép lại trong niềm hân hoan, nhưng đó không phải là sự kết thúc, mà là một khởi đầu – khởi đầu cho một tương lai mới, một thế giới không còn áp bức, nơi những giấc mơ nghìn đời của nhân dân lao động đang dần trở thành hiện thực.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *