Tặng nhà thơ Pa-thét Lào: Xôm-xi
Gửi lời thăm bạn Xôm Xi,
Tình thi sĩ Việt yêu thi sĩ Lào.
Tay chưa bắt, mặt chưa chào,
Lời ăn tiếng nói thể nào chưa hay,
Mà lòng đã hẹn nhau ngay,
Xem thơ bạn, tức là đây tâm hồn!
Là đẹp đẽ nước non yêu quý,
Bắc rậm rừng, hùng vĩ núi non;
Nam theo sông Cửu Long tuôn,
Suối quanh chảy khắp, làng thôn mọc đều…
Vài câu bạn nói thân yêu
Tôi xem thấy hiện phì nhiêu nước Lào…
Như đất nước thấm vào thi
Hoa tươi hơn, trời ý nhị hơn;
Tình yêu mô tả giang sơn
Nét sông thêm đẹp, đường non thêm hùng.
Lòng tôi cũng như lòng bạn đó,
Nước Việt tôi ngàn thuở tôi yêu;
Biển dài, sông rộng, gió hiu,
Núi xoa sương biếc, đồng thêu nắng vàng,
Chúng ta nhiệm vụ vẻ vang,
Vần thơ tiếng mẹ võ trang tinh thần.
Đời đời Lào Việt giao thân,
Xôm Xi, tôi với bạn gần biết bao!
Hai dân tộc Việt Lào anh dũng
Chim bay lên giải phóng gọi bầy,
Tiếng hoà vang động trời mây,
Cánh tung bên ấy bên nầy Hoành Sơn.
1954
*
Tình Hữu Nghị Trong Những Vần Thơ
Trong lịch sử đấu tranh vì độc lập, Việt Nam và Lào không chỉ là những người láng giềng mà còn là hai dân tộc gắn bó keo sơn, chia sẻ chung một lý tưởng. Xuân Diệu, bằng tất cả sự trân quý, đã gửi gắm tình cảm sâu sắc ấy vào bài thơ Tặng nhà thơ Pa-thét Lào: Xôm-xi, dành cho một người đồng nghiệp xa mà gần, như một minh chứng cho tình đoàn kết bất diệt giữa hai nước.
Tình thi sĩ – Tình anh em Việt – Lào
Ngay từ những câu đầu tiên, Xuân Diệu đã khẳng định tình cảm đặc biệt dành cho nhà thơ Xôm-xi và qua đó, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa hai dân tộc:
“Gửi lời thăm bạn Xôm Xi,
Tình thi sĩ Việt yêu thi sĩ Lào.”
Dù chưa từng gặp mặt, chưa từng bắt tay hay trò chuyện, nhưng chỉ cần đọc thơ nhau, Xuân Diệu đã cảm nhận được cả một tâm hồn, một đất nước Lào hiện lên sống động. Đó là sự đồng điệu của những con người yêu nước, những thi sĩ dùng thơ ca để phản ánh vẻ đẹp quê hương và ý chí đấu tranh.
“Là đẹp đẽ nước non yêu quý,
Bắc rậm rừng, hùng vĩ núi non;
Nam theo sông Cửu Long tuôn,
Suối quanh chảy khắp, làng thôn mọc đều…”
Những câu thơ ấy như một bức tranh tươi đẹp về đất nước Lào, nơi núi rừng hùng vĩ hòa cùng dòng nước Cửu Long mềm mại. Xuân Diệu không chỉ cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên mà còn thấy được sức sống, sự trù phú của miền đất này.
Thơ ca – Tiếng nói của lòng yêu nước
Cả Việt Nam và Lào đều đã trải qua những năm tháng chiến tranh gian khổ. Nhưng chính trong khói lửa ấy, thơ ca lại trở thành một thứ vũ khí tinh thần mạnh mẽ:
“Chúng ta nhiệm vụ vẻ vang,
Vần thơ tiếng mẹ võ trang tinh thần.”
Nhà thơ không chỉ viết về cảnh đẹp quê hương mà còn viết để cổ vũ tinh thần đấu tranh. Từ những dòng thơ của Xôm-xi, Xuân Diệu cảm nhận được khát vọng độc lập của nhân dân Lào, cũng như chính ông gửi gắm trong thơ mình tình yêu sâu đậm với đất nước Việt Nam.
Hai dân tộc – Một khát vọng
Sợi dây liên kết giữa Việt Nam và Lào không chỉ nằm ở tình cảm mà còn ở chung một lý tưởng giải phóng dân tộc. Xuân Diệu đã khẳng định một cách đầy kiêu hãnh:
“Đời đời Lào Việt giao thân,
Xôm Xi, tôi với bạn gần biết bao!”
Mối quan hệ Việt – Lào không chỉ là sự hợp tác chính trị, mà còn là tình nghĩa anh em, sự đồng lòng trên con đường đấu tranh. Hình ảnh những cánh chim cùng bay lên bầu trời tự do, tiếng hòa bình vang vọng khắp trời mây đã thể hiện niềm tin vào một tương lai tươi sáng:
“Chim bay lên giải phóng gọi bầy,
Tiếng hoà vang động trời mây,
Cánh tung bên ấy bên nầy Hoành Sơn.”
Bài thơ khép lại bằng một hình ảnh đầy mạnh mẽ và tươi sáng. Chim giải phóng tượng trưng cho tự do, cho khát vọng hòa bình, và cho sự đoàn kết giữa hai dân tộc.
Lời kết
Bằng những vần thơ chân thành và sâu sắc, Xuân Diệu đã vẽ nên một bức tranh về tình hữu nghị giữa Việt Nam và Lào, không chỉ trong chiến đấu mà còn trong cả tâm hồn thi ca. Tặng nhà thơ Pa-thét Lào: Xôm-xi không chỉ là bài thơ gửi tặng một người bạn văn chương, mà còn là lời khẳng định mạnh mẽ về sự gắn bó keo sơn của hai dân tộc anh em.
Dù năm tháng có trôi qua, nhưng tình nghĩa Việt – Lào vẫn mãi trường tồn, như những cánh chim vẫn bay mãi trên bầu trời tự do.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý