Thăm mộ cha mẹ chồng
Đường vào rậm rạp cây che lấp
Tìm mộ, gai cào dớm máu chân
Hai bó hoa sen, hương toả khói
Má ba ơi, dâu đã về thăm!
Đứng lặng bên bia mờ nét chữ
Nhớ năm xưa tết, chúng con về
Chồng rẫy cỏ, vợ ngồi châm lửa
Quang sáng đôi mồ ấm nắng quê
Mà nay thui thủi dâu thăm mộ
Cây cỏ như rừng, lạnh khói nhang
Ba má thương dâu dài dặm khách
Dâu xót đôi mồ quạnh cõi hoang!
TP. Hồ Chí Minh cuối thu Tân Hợi
*
Nỗi Niềm Dâu Con Trước Mộ Người Xưa
Bài thơ Thăm mộ cha mẹ chồng của nhà thơ Anh Thơ mang đến một nỗi buồn sâu lắng, một tấm lòng hiếu nghĩa của người con dâu khi trở về thăm nơi yên nghỉ của cha mẹ chồng. Từng câu chữ như một tiếng nấc nghẹn ngào giữa không gian hoang vắng, nơi mà thời gian đã phủ đầy rêu phong, nhưng tình cảm vẫn nguyên vẹn như thuở nào.
Bước chân lạc giữa quạnh hiu
“Đường vào rậm rạp cây che lấp
Tìm mộ, gai cào dớm máu chân
Hai bó hoa sen, hương toả khói
Má ba ơi, dâu đã về thăm!”
Con đường vào nghĩa trang giờ đã trở nên hoang vu, cỏ dại mọc um tùm, cây lá phủ kín lối đi. Người con dâu đi tìm mộ cha mẹ chồng mà phải len lỏi giữa bụi gai, để đến mức chân cũng rướm máu. Sự vất vả ấy không chỉ là sự nhọc nhằn của đôi chân, mà còn là nỗi đau trong lòng khi chứng kiến cảnh quạnh quẽ của nơi từng là chốn linh thiêng, nơi những người thân yêu nhất đã an nghỉ.
Thế nhưng, dẫu đường đi có gian nan, dù đôi chân có đau rát, người con dâu ấy vẫn mang theo hoa sen và nén nhang thơm, như một lời chào, một sự báo đáp ân nghĩa đối với đấng sinh thành của chồng mình. Lời gọi “Má ba ơi, dâu đã về thăm!” vang lên như một tiếng lòng tha thiết, vừa thân thương vừa xót xa.
Những ngày cũ rạng ngời trong ký ức
“Đứng lặng bên bia mờ nét chữ
Nhớ năm xưa tết, chúng con về
Chồng rẫy cỏ, vợ ngồi châm lửa
Quang sáng đôi mồ ấm nắng quê”
Khi đứng trước bia mộ đã mờ theo năm tháng, ký ức ngày xưa lại ùa về. Đó là những ngày tết sum vầy, khi cả gia đình cùng nhau trở về chăm sóc phần mộ tổ tiên. Người chồng dọn dẹp, nhổ cỏ xung quanh, người vợ thì thắp nhang, châm lửa hương khói để sưởi ấm linh hồn người khuất. Những khoảnh khắc ấy tuy giản dị nhưng lại chứa đựng cả một bầu trời ấm áp, một sự hiếu nghĩa thiêng liêng.
Thế nhưng, hiện tại chỉ còn lại một mình người con dâu lặng lẽ đứng đó, đối diện với hai nấm mộ lạnh lẽo. Người chồng không còn nữa, gia đình cũng chẳng còn ai cùng chung tay như ngày trước. Hình ảnh “bia mờ nét chữ” không chỉ nói về sự bào mòn của thời gian, mà còn ẩn dụ cho nỗi cô đơn, cho sự mất mát không thể nào khỏa lấp.
Nỗi lòng người ở lại
“Mà nay thui thủi dâu thăm mộ
Cây cỏ như rừng, lạnh khói nhang
Ba má thương dâu dài dặm khách
Dâu xót đôi mồ quạnh cõi hoang!”
Chẳng còn không khí đoàn tụ của ngày xưa, chỉ còn lại bóng dáng nhỏ bé của người con dâu giữa nghĩa trang hoang vu. Cỏ cây đã mọc um tùm như một khu rừng, không ai còn thường xuyên lui tới. Nén nhang được thắp lên, nhưng khói nhang cũng trở nên lạnh lẽo trong khung cảnh tĩnh mịch, không còn hơi ấm của những ngày tết rộn ràng xưa kia.
Người con dâu vẫn tin rằng cha mẹ chồng nơi chín suối vẫn thương mình, vẫn dõi theo bước chân mình trên những dặm đường xa xôi. Nhưng điều đó không khiến nỗi cô đơn vơi bớt, không làm nguôi ngoai sự xót xa khi nhìn thấy nơi yên nghỉ của ba má ngày càng hoang vắng, lạnh lẽo. Đó không chỉ là nỗi đau của riêng một người, mà còn là lời nhắc nhở về tình cảm gia đình, về sự trân quý những phút giây được bên nhau, trước khi tất cả trở thành hoài niệm.
Thông điệp của bài thơ
Bài thơ Thăm mộ cha mẹ chồng không chỉ là một câu chuyện cá nhân mà còn chạm đến nỗi lòng của bao người con xa quê, của những ai từng trải qua mất mát. Nó nhắc nhở ta về lòng hiếu nghĩa, về sự biết ơn với những người đi trước. Hãy trân trọng từng khoảnh khắc bên gia đình, hãy gìn giữ những giá trị yêu thương, để sau này khi quay về, ta không phải đối diện với nỗi tiếc nuối và cô đơn.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.