Thăm Pác Bó
Nước từ gốc đá chảy tuôn
Suối xanh ngăn ngắt một nguồn vô biên,
Xuôi xa rồi lại trào lên;
Cây thài lài tía mọc bên đá ghềnh.
Một vùng thuần khiết non xanh
Như mang ánh mắt tinh anh Bác Hồ.
Hãy còn bàn đá nhấp nhô
Bác ngồi dịch Sử, nghĩ cho muôn đời.
Rau măng cháo bẹ dâng Người,
Ngày ra bờ suối, tối thời vào hang.
Nơi đây Bác vạch đường quang
Mở ra sông núi, gồm sang biển trời.
Cải soong dưới suối đâm tươi;
Xuống làng: mái ngói điểm vui các nhà.
– Thăm hang trước, nhớ ngày xa
Bác trồng khóm trúc nay đà xanh um.
10-1964
*
Pác Bó – Nơi Lưu Dấu Chân Người
Pác Bó – cái tên đã đi vào lịch sử như một biểu tượng của tinh thần cách mạng, của những ngày tháng gian lao nhưng đầy ý chí kiên cường của Bác Hồ. Trong bài thơ Thăm Pác Bó, Xuân Diệu đã tái hiện lại vẻ đẹp hoang sơ, trong trẻo của vùng đất này, đồng thời khắc họa hình ảnh Bác Hồ giữa núi rừng, với tầm nhìn bao quát vận mệnh dân tộc.
Vẻ Đẹp Thuần Khiết Của Pác Bó
Bài thơ mở ra bằng những hình ảnh thiên nhiên trong trẻo, nguyên sơ:
Nước từ gốc đá chảy tuôn
Suối xanh ngăn ngắt một nguồn vô biên,
Xuôi xa rồi lại trào lên;
Cây thài lài tía mọc bên đá ghềnh.
Dòng nước suối Pác Bó chảy mãi không ngừng, như chính tinh thần cách mạng luôn tuôn trào, không bao giờ cạn. Sắc xanh của suối, của cây cỏ hòa quyện với đá ghềnh gợi lên một khung cảnh vừa hoang sơ, vừa thanh khiết. Chính nơi đây, giữa chốn núi rừng hoang vắng, một con người vĩ đại đã sống, đã làm việc, và đã vạch ra con đường đưa dân tộc đến tự do.
Một vùng thuần khiết non xanh
Như mang ánh mắt tinh anh Bác Hồ.
Xuân Diệu đã tinh tế khi ví vẻ đẹp của Pác Bó như chính ánh mắt Bác – trong sáng, tinh anh, và chất chứa bao điều sâu lắng. Nơi đây không chỉ là một chốn thiên nhiên tươi đẹp, mà còn là vùng đất lưu giữ tinh thần, trí tuệ và cả nỗi trăn trở của Bác Hồ với vận mệnh đất nước.
Bác Hồ – Người Chiếu Rọi Ánh Sáng Cách Mạng
Hình ảnh Bác hiện lên giữa cảnh vật của Pác Bó:
Hãy còn bàn đá nhấp nhô
Bác ngồi dịch Sử, nghĩ cho muôn đời.
Chiếc bàn đá đơn sơ bên suối, nơi Bác Hồ dịch Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, không chỉ là một biểu tượng của sự khổ hạnh mà còn là minh chứng cho trí tuệ, tầm nhìn chiến lược của Người. Ngồi giữa núi rừng, Bác không chỉ suy tư về hiện tại mà còn hoạch định con đường cho cả tương lai dân tộc.
Rau măng cháo bẹ dâng Người,
Ngày ra bờ suối, tối thời vào hang.
Những ngày tháng gian lao nơi Pác Bó, với bữa ăn đơn sơ chỉ có rau măng, cháo bẹ, không làm giảm đi ý chí của Bác. Người vẫn miệt mài lao động, tư duy, và nuôi dưỡng khát vọng lớn lao. Đó chính là tinh thần của một người lãnh đạo chân chính – sống giản dị nhưng tư tưởng vươn xa.
Nơi đây Bác vạch đường quang
Mở ra sông núi, gồm sang biển trời.
Pác Bó không chỉ là một nơi trú ẩn, mà còn là nơi khởi nguồn của một cuộc cách mạng vĩ đại. Từ đây, Bác đã vạch ra con đường sáng, mở ra một vận mệnh mới cho non sông, từ núi rừng Cao Bằng đến khắp mọi miền đất nước.
Những Dấu Ấn Còn Mãi
Cải soong dưới suối đâm tươi;
Xuống làng: mái ngói điểm vui các nhà.
Những gì Bác để lại không chỉ là lý tưởng, mà còn là những giá trị thực tế cho nhân dân. Những ngôi nhà, những mái ngói bình yên là minh chứng cho sự đổi thay mà Bác đã mang lại.
– Thăm hang trước, nhớ ngày xa
Bác trồng khóm trúc nay đà xanh um.
Khóm trúc Bác trồng ngày nào giờ đã xanh um, như chính tư tưởng, tinh thần của Bác vẫn luôn xanh tươi trong lòng dân tộc. Trúc vươn lên bền bỉ, kiên cường, cũng như thế hệ sau tiếp nối con đường mà Bác đã khai mở.
Lời Kết – Pác Bó Mãi Là Biểu Tượng
Bài thơ Thăm Pác Bó không chỉ là một bài ca về thiên nhiên tươi đẹp, mà còn là một lời tri ân sâu sắc dành cho Bác Hồ. Nơi đây, giữa núi rừng đơn sơ, một tư tưởng vĩ đại đã hình thành, một con đường cách mạng đã được vạch ra. Dù năm tháng trôi qua, nhưng dấu ấn của Bác vẫn còn mãi với thời gian, như dòng suối Pác Bó vẫn chảy mãi không ngừng, như khóm trúc xanh um vẫn vươn mình trong nắng gió.
Và thế hệ hôm nay, khi đặt chân đến Pác Bó, không chỉ để ngắm cảnh đẹp, mà còn để lắng lòng, để hiểu và trân trọng những giá trị mà Bác đã gieo mầm cho đất nước.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý