Thấy gió bấc cảm
Gió bấc nay đà tiễn gió thu,
Mà sao chưa thổi hết cơn sầu.
Người sầu nào phải sầu vì gió,
Sầu bởi vì trông cuộc bể dâu!
*
Gió Bấc – Lời Nhắn Nhủ Từ Dâu Bể Nhân Gian
Gió bấc đã tràn về, cuốn theo hơi lạnh mùa đông, khép lại những ngày thu êm đềm. Nhưng có một nỗi sầu vẫn còn vương vấn, chẳng thể theo gió mà tan biến. Bài thơ Thấy gió bấc cảm của Đông Hồ tuy ngắn gọn nhưng lại chứa đựng cả một nỗi niềm sâu thẳm về thời cuộc, về nhân sinh, khiến người đọc không khỏi chạnh lòng suy ngẫm.
Cơn gió mùa không thổi tan niềm sầu
“Gió bấc nay đà tiễn gió thu,
Mà sao chưa thổi hết cơn sầu.”
Mùa thu – mùa của thi nhân, của những nỗi niềm trầm mặc, đã lùi xa. Gió bấc – tín hiệu của mùa đông rét buốt, đã đến. Tự nhiên vẫn vận hành theo quy luật vốn có, thời gian vẫn chảy trôi, nhưng lòng người thì sao? Đông Hồ tự hỏi, tại sao gió bấc có thể xua đi hơi ấm của thu mà không thể cuốn theo những muộn phiền của con người?
Câu thơ không chỉ là một sự quan sát cảnh vật đơn thuần, mà còn gợi lên cảm giác bâng khuâng, nuối tiếc. Phải chăng nỗi sầu trong lòng tác giả quá lớn, quá sâu, đến mức dù gió có mạnh đến đâu cũng không thể cuốn đi?
Nỗi sầu không phải từ gió, mà từ dâu bể cuộc đời
“Người sầu nào phải sầu vì gió,
Sầu bởi vì trông cuộc bể dâu!”
Câu thơ như một lời giãi bày, một lời tự thức tỉnh. Gió chỉ là ngoại cảnh, nỗi buồn thực sự không đến từ thiên nhiên, mà từ lòng người khi chứng kiến sự đổi thay của thế sự. “Bể dâu” – hình ảnh quen thuộc trong văn chương, tượng trưng cho những biến thiên khôn lường của cuộc đời.
Bể xanh hóa nương dâu, vinh quang rồi cũng sẽ phai mờ, quyền lực, danh vọng, hạnh phúc hay khổ đau đều mong manh trước dòng chảy vô tận của thời gian. Đông Hồ không chỉ nói về nỗi buồn của riêng mình, mà còn khái quát nỗi buồn chung của con người khi đối diện với những đổi thay không thể cưỡng lại.
Lời nhắn nhủ giữa cơn gió lạnh
Bài thơ ngắn, nhưng lại mang sức gợi lớn. Đó không chỉ là một cảm xúc thoáng qua trước cơn gió bấc, mà là một triết lý nhân sinh sâu sắc. Đời người cũng như trời đất, có lúc ấm áp, có lúc lạnh lẽo. Nhưng nỗi sầu lớn nhất không phải là cái rét của mùa đông, mà là sự vô thường của cuộc sống.
Đọc bài thơ, ta không chỉ thấy được sự nhạy cảm, tinh tế của Đông Hồ trước thiên nhiên, mà còn cảm nhận được trái tim ông luôn trăn trở về thế sự. Và có lẽ, mỗi chúng ta khi đứng giữa cơn gió mùa, cũng sẽ chợt thấy lòng mình dậy lên những suy tư về kiếp người, về những đổi thay mà chẳng ai có thể nắm giữ…
*
Đông Hồ – Nhà thơ và người bảo tồn văn hóa dân tộc
Đông Hồ (1906-1969), tên thật Lâm Tấn Phác, là một nhà thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học có tầm ảnh hưởng lớn đối với nền văn học Việt Nam. Sinh ra tại Hà Tiên, vùng đất giàu truyền thống văn hóa, ông sớm bộc lộ niềm say mê đối với quốc văn và quốc ngữ, từ đó dành trọn đời để nghiên cứu, giảng dạy và sáng tác bằng tiếng Việt.
Là thành viên của nhóm “Hà Tiên tứ tuyệt”, Đông Hồ không chỉ sáng tác thơ mà còn viết văn, ký, khảo cứu, góp phần quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy văn hóa dân tộc. Ông từng sáng lập Trí Đức học xá, xuất bản tuần báo Sống, điều hành nhà xuất bản Bốn Phương và tạp chí Nhân Loại, với mục tiêu cổ vũ tinh thần dân tộc, đề cao giá trị tiếng Việt.
Thơ và văn của ông nhẹ nhàng, sâu sắc, giàu tình cảm, đi từ thể loại truyền thống đến hiện đại. Những tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến Thơ Đông Hồ, Linh Phượng, Cô gái xuân, Hà Tiên thập cảnh… Bên cạnh đó, ông cũng được biết đến là người tiên phong trong việc phát triển thư pháp chữ Quốc ngữ.
Cuộc đời và sự nghiệp của Đông Hồ là minh chứng cho một tấm lòng tha thiết với văn hóa Việt Nam. Ông mất năm 1969 ngay trên bục giảng khi đang giảng bài thơ Trưng Nữ Vương, để lại một di sản văn học đáng trân trọng.
Viên Ngọc Quý