Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt
Nắng trên không gian và thơ trên nắng
Thơ làm ra nắng nắng ra thơ
Mặt trời cất chứa trong lòng trái khổ qua
Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,
trong khi bên ngoài gió hú
Thơ theo gió đi về cồn xưa bãi cũ
Mái tranh nghèo còn đứng đợi ven sông
Thơ nơi từng giọt mưa Xuân
Thơ trong từng đốm lửa hồng
Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm
Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử
Nắng vắng trong hư không, nhưng nắng chất đầy một lò sưởi đỏ
Nắng lên thành mầu Khói, thơ đọng thành mầu Sương
Nắng cất giữ trong từng hạt mưa Xuân
Giọt nước cúi xuống hôn Đất, cho hạt cây nẩy Mầm
Thơ đi theo mưa, về trên từng đọt Lá
Nắng thành mầu Xanh, thơ mầu Hồng
Nắng chở trên cánh Ong tới trút Ấm lên đài hoa
Thơ theo nắng về rừng xa uống Mật
Tưng bừng, xôn xao, bướm ong về chật đất
Nắng làm nên khúc Múa, thơ làm nên lời Ca
Mồ hôi giọt xuống đất khô, thơ bay trên luống cày
Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở
Nắng rụng bên Sông, bóng Chiều ngập ngừng bỡ ngỡ
Thơ đi về chân trời, nơi vầng Sáng đang đắp chân mây
Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi
Mặt trời dẻo thơm trong bát cơm gạo Tám
Thơ trong ánh mắt em thơ, thơ trong mầu da nắng sạm
Thơ nơi từng cái Nhìn chăm chú
Thơ nơi từng bàn tay vun xới miền đồng chua nước mặn xa xăm
Mặt trời cười tươi trên bông hướng dương
Mặt trời trĩu nặng nơi trái đào Tiên tháng tám
Thơ nơi từng bước chân thiền quán
Thơ nơi từng dòng chữ
Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương.
(Bài thơ nằm trong tuyển tập “Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt”)
*
“Thơ Từng Ôm và Mặt Trời Từng Hạt” – Khi Ánh Nắng Trở Thành Lời Nguyện Yêu Thương
Có những bài thơ không cần cao giọng để chạm đến trái tim. Có những vần thơ chỉ khẽ thì thầm thôi, nhưng trong sự lặng thinh ấy lại chất đầy hơi ấm của cả một mùa nắng. Bài thơ “Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một bài như vậy – ngập tràn sự sống, giản dị nhưng mầu nhiệm, là lời tụng ca âm thầm của một người đã nhìn thế giới bằng con mắt thương yêu thấu suốt.
Nắng trên không gian và thơ trên nắng
Thơ làm ra nắng, nắng ra thơ
Ngay từ những câu mở đầu, Thiền sư đã dẫn ta vào một thế giới không có ranh giới giữa thơ và thực tại. Ánh nắng không còn là ánh sáng vật lý, mà là biểu tượng của sự sống, của hiểu biết, của tình thương. Và thơ – chính là khả năng nhận ra sự sống ấy trong từng điều bình dị nhất.
Mặt trời cất chứa trong lòng trái khổ qua
Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông
Hình ảnh giản dị như bát canh, trái khổ qua – vốn là những thứ quen thuộc trong bữa ăn thường ngày – bỗng trở nên linh thiêng. Thiền sư không làm thơ để ngợi ca cái vĩ đại, mà để mời ta thấy cái nhiệm mầu trong những điều bình thường nhất: ánh sáng trong một đốm lửa, nỗi nhớ trong làn khói bếp, một giọt mưa xuân cũng mang theo cả vũ trụ.
Nắng cất giữ trong từng hạt mưa Xuân
Giọt nước cúi xuống hôn đất, cho hạt cây nẩy mầm
Thơ đi theo mưa, về trên từng đọt lá
Trong mỗi dòng thơ là một cái nhìn sâu sắc về tương tức, rằng trong hạt mưa có nắng, trong giọt nước có sự sống, và trong từng chiếc lá là sự tiếp nối của mặt trời. Tất cả không rời rạc, không riêng lẻ, mà gắn kết với nhau trong một vòng tay yêu thương bao la.
Mồ hôi giọt xuống đất khô, thơ bay trên luống cày
Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở
Ở đây, Thiền sư không tách rời thơ với lao động, thơ không nằm trong sách quý hay nơi cao vời, mà thơ ở ngay nơi con người đang sống – sống chân thật, sống có mặt, sống bằng bàn tay và hơi thở. Chỉ cần sống sâu sắc và trọn vẹn, là đã chạm vào thơ.
Thơ trong ánh mắt em thơ, thơ trong màu da nắng sạm
Thơ nơi từng cái nhìn chăm chú
Thơ nơi từng bàn tay vun xới miền đồng chua nước mặn xa xăm
Thơ không cần tìm đâu xa. Nó có mặt trong ánh mắt trẻ thơ, trong lưng còng mẹ già, trong bàn tay chai sạn của người nông dân, trong cái nhìn không vội vã, không hững hờ. Thơ ở ngay trong tình thương – nơi con người chịu thương, chịu khó, và chăm chút cho nhau từng điều nhỏ nhất.
Thơ nơi từng bước chân thiền quán
Thơ nơi từng dòng chữ
Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương.
Câu kết bài như một lời nhắn: Thơ không phải là những gì ta viết ra, mà là những gì ta sống, những gì ta giữ gìn trong im lặng, những gì ta trao tặng mà không cần đền đáp. Thơ chính là mặt trời trong mỗi hạt gạo, trong mỗi bước chân, trong mỗi nhịp thở có chánh niệm và từ bi.
“Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt” là một khúc thiền ca đẹp đến thổn thức – nơi thơ và đời không còn tách biệt, nơi mọi vật đều mang ý nghĩa khi ta nhìn bằng tâm từ. Thiền sư không chỉ dạy ta làm thơ, mà dạy ta sống như thơ, sống như mặt trời rải ánh sáng dịu dàng lên từng nhánh cỏ khô, từng khuôn mặt sạm nắng, từng tấm lòng thầm lặng vun đắp yêu thương.
Và có lẽ, nếu sống được như thế, ta không cần tìm bài thơ nào khác. Vì chính cuộc đời ta, đã là một bài thơ.
*
Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.
Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.
Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.
Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.
Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100m2 được đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.
Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.
Viên Ngọc Quý