Thời trước
Sáng giăng chia nửa vườn chè,
Một gian nho nhỏ đi về có nhau.
Vì tằm tôi phải chạy dâu,
Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay.
Chồng tôi thi đỗ khoa này,
Bõ công kinh sử từ ngày lấy tôi.
Kẻo không rồi chúng bạn cười,
Rằng tôi nhan sắc cho người say sưa.
Tôi hằng khuyên sớm khuyên trưa:
– Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng.
*
Một quan là sáu trăm đồng,
Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.
*
Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy,
Hai bên có lính hầu đi dẹp đàng.
Tôi ra đón tận gốc bàng,
Chồng tôi xuống ngựa cả làng ra xem.
*
Đêm nay mới thật là đêm,
Ai đem giăng giãi lên trên vườn chè?
1936
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Văn Phụng phổ nhạc thành bài hát cùng tên.
*
Đêm giăng xưa và một thời yêu son sắt
Trong những vần thơ mộc mạc nhưng thấm đượm chân tình của Nguyễn Bính, bài thơ Thời trước là một viên ngọc dịu dàng soi chiếu vẻ đẹp của một thời yêu đã cũ – thời mà tình yêu không chỉ là khát khao mà còn là sự hi sinh âm thầm, là phẩm hạnh, là niềm tự hào, là lòng thủy chung sắt son giữa người vợ quê và người chồng theo nghiệp đèn sách.
Bài thơ mở ra bằng hình ảnh giản dị mà đầy thi vị:
Sáng giăng chia nửa vườn chè,
Một gian nho nhỏ đi về có nhau.
Giữa không gian thôn quê thanh bình, một tổ ấm nhỏ hiện lên với sự gắn bó chân thành của đôi vợ chồng trẻ. Tình yêu ấy được xây nên từ nhọc nhằn: Vì tằm tôi phải chạy dâu, / Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay. – một câu thơ vừa nhẹ mà thấm, vẽ nên hai nhịp đời song song: người phụ nữ lam lũ vì kế sinh nhai, người đàn ông vất vả vượt lên con đường khoa cử.
Ở đây, Nguyễn Bính không chỉ kể một chuyện tình mà còn khắc họa một nhân cách: người vợ ấy không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết. Nàng hằng khuyên sớm khuyên trưa, giữ vẹn lời thề hứa, lấy sự đỗ đạt của chồng làm mục tiêu sống và tình yêu làm chốn dựa chờ đợi. Câu thơ:
Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng
vừa như một lời ước hẹn, vừa như một biểu tượng cho phẩm hạnh thuần hậu của người phụ nữ xưa – lấy đức tin và hy sinh làm gốc rễ của tình yêu.
Cao trào của bài thơ là khoảnh khắc người chồng cưỡi ngựa vinh quy, có lính hầu hai bên dẹp đường, như một giấc mơ hiện thực sau bao năm đèn sách và chắt chiu. Nhưng điều xúc động hơn là cảnh người vợ không chờ trong nhà, mà ra đón tận gốc bàng, mang theo nỗi tự hào xen lẫn một chút e ấp. Đó là phút giây mà những tháng ngày gian khổ của nàng như được gột rửa bằng ánh mắt của làng xóm, bằng sự thừa nhận của cả cộng đồng.
Và cuối cùng, bài thơ khép lại với một hình ảnh đẹp đến lặng người:
Đêm nay mới thật là đêm,
Ai đem giăng giãi lên trên vườn chè?
Ánh trăng trong thơ Nguyễn Bính luôn mang một linh hồn rất riêng – ở đây, nó không chỉ là ánh sáng mà còn là chứng nhân của tình yêu trọn vẹn. Sau bao năm chờ đợi, đêm tân hôn giản dị nhưng thanh khiết ấy là kết tinh của lòng son, của những tháng ngày giữ gìn và vun đắp.
Thời trước là một hồi chuông ngân dài về những giá trị yêu thương bền vững mà thời gian không thể làm mai một. Qua hình ảnh người vợ quê, Nguyễn Bính ca ngợi nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: thủy chung, chịu thương chịu khó, sống vì người mình yêu không phải bằng sự níu giữ, mà bằng niềm tin và sự nâng đỡ.
Đó không chỉ là chuyện tình của một thời, mà còn là khúc ngâm của muôn đời. Một bài thơ – một tấm lòng. Một thời yêu – một đời nhớ.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý