Thư cho chị
Viết cho chị cánh thư này,
Một đêm lữ thứ em say rượu cần.
Nhớ người cách một mùa xuân,
Hình như người đã một lần sang sông.
Ồ! Say! Thương nhớ vô cùng,
Rượu hay lệ ướt khăn hồng, chị ơi!
Làm sao giấc ngủ không dài?
Mà đêm không ngắn, mà giời cứ mưa?
Làm sao em sống như thừa?
Cố đem men rượu tẩm vừa lòng đau.
Kể từ hai đứa thôi nhau,
Em thường chả có đêm nào không say.
Sao em đơn chiếc thế này?
Sao em lại khóc như ngày chị đi?
Ở đây còn có vui gì,
Vườn dâu xa lắm! Lối về chị xa…
Con đường sang xóm Trữ La,
Cách một ngày ngựa, cách ba ngày đò.
*
Lúc này em nghĩ mà lo,
Cứ thương nhớ mãi thì cho hết đời!
Hôm qua có chuyến đò xuôi,
Toan về Hà Nội lại thôi, không về.
*
Em trồng được một cây lê,
Hẹn bốn năm nữa thì về nhặt hoa.
Nhưng là vườn đất người ta,
Mình là khách trọ một và hôm thôi.
Sáng mai có lẽ em xuôi,
Nếu không đãng trí và giời không mưa.
Nhưng mà… khăn gói gió đưa…
Lại về Hà Nội thì chưa muốn về.
Đò thuê, ngày ngựa cũng thuê,
Sang nhìn qua kẻ lỗi thì sang sông.
Ồ! Say! Thương nhớ vô cùng,
Rượu hay lệ ướt khăn hồng, chị ơi!
*
“Rượu, lệ và một cánh thư muộn” – Lời nhắn gửi từ một linh hồn cô độc trong thơ Nguyễn Bính
Trong những cơn say của Nguyễn Bính, người ta bắt gặp một nỗi buồn không thể gọi tên, một nỗi cô đơn không thể cắt nghĩa, và một tình yêu thương dẫu không còn hiện hữu vẫn dai dẳng cháy mãi trong tim. “Thư cho chị” là một trong những bài thơ như thế: giản dị, đầy tâm sự, nhưng khiến lòng người đọc se lại, bởi ẩn sau đó là tiếng khóc nén sâu của một người em nhỏ – vừa là em ruột, vừa là em tình – gửi cho một người phụ nữ đã khuất bóng, hay đã khuất xa.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Bính viết:
Viết cho chị cánh thư này,
Một đêm lữ thứ em say rượu cần.
Nhớ người cách một mùa xuân,
Hình như người đã một lần sang sông.
Một đêm “lữ thứ” – đêm xa nhà, đêm không thuộc về đâu cả, đêm của kẻ tha phương. Trong cái lạnh buốt của tình cảnh ấy, men rượu cần trở thành người bầu bạn. Nhưng rượu không làm ấm lòng. Rượu chỉ gợi thêm nhớ thương. “Hình như người đã một lần sang sông” – câu thơ như một cái nhói. Người con gái ấy, người chị ấy, không còn là của “em” nữa. Có thể đã lấy chồng. Có thể đã mất. Có thể chỉ đơn giản là rời xa nhau bởi những ngã rẽ đời. Dù là lý do gì, thì một khi đã “sang sông”, nghĩa là đã cách biệt – vĩnh viễn.
Ồ! Say! Thương nhớ vô cùng,
Rượu hay lệ ướt khăn hồng, chị ơi!
Một tiếng thốt, một lời than, mà như một tiếng gọi vô vọng. Ở đây, Nguyễn Bính tài tình đến đau lòng: ông không cần kể lể, chỉ một hình ảnh “khăn hồng ướt” đã đủ cho người đọc thấy nước mắt đang hòa lẫn trong men rượu, và những gì chàng trai đang gặm nhấm không chỉ là cơn say mà là cả một đoạn tình tan vỡ.
Bài thơ chảy dài trong nỗi u uẩn của một tâm hồn chông chênh. Chàng trai không tìm thấy niềm vui trong đời sống hiện tại:
Ở đây còn có vui gì,
Vườn dâu xa lắm! Lối về chị xa…
Vườn dâu, con đường cũ – tất cả đã trở thành kỷ niệm xa vời. Quá khứ càng đẹp, hiện tại càng cô quạnh. Sự xa cách không chỉ là địa lý, mà còn là thời gian, là định mệnh. Người ấy không chỉ “xa”, mà có lẽ đã không thể quay về nữa.
Khổ thơ tiếp lại càng quặn thắt hơn:
Em trồng được một cây lê,
Hẹn bốn năm nữa thì về nhặt hoa.
Nhưng là vườn đất người ta,
Mình là khách trọ một và hôm thôi.
Cây lê – hình ảnh tượng trưng cho hy vọng, cho tương lai – lại được trồng trên đất người, và “mình là khách trọ”. Câu thơ như một lời thừa nhận cay đắng: mọi thứ trong đời chỉ là tạm bợ, tình yêu cũng không bền lâu, ngay cả nơi gieo mộng cũng không thuộc về mình. Câu thơ bốn chữ “một và hôm thôi” nghe nhẹ như gió thoảng mà nặng như lời tuyệt vọng.
Tuy nhiên, Nguyễn Bính không tuyệt tình. Ngay trong cơn mê man của khổ đau, ông vẫn giữ một chút lưỡng lự – như kẻ đứng giữa hai bờ, chưa dứt hẳn mà cũng chẳng thể tiếp bước:
Sáng mai có lẽ em xuôi,
Nếu không đãng trí và giời không mưa.
Nhưng mà… khăn gói gió đưa…
Lại về Hà Nội thì chưa muốn về.
Ở đây, cái “chưa muốn về” không chỉ là sự chần chừ. Nó là biểu hiện của một tâm hồn tan vỡ, không còn nơi bấu víu. Không ở lại, cũng chẳng muốn quay về. Như chiếc lá rụng, lơ lửng giữa trời, chẳng biết gió sẽ đưa đi đâu.
Bài thơ khép lại bằng cách nó bắt đầu: một tiếng thở dài, một lần nữa lặp lại tiếng gọi “Ồ! Say!”, như thể giữa đầu và cuối bài thơ, mọi cố gắng quên đi, mọi lần dự tính thay đổi, đều tan biến – chỉ còn lại rượu, lệ và một linh hồn thổn thức.
Ồ! Say! Thương nhớ vô cùng,
Rượu hay lệ ướt khăn hồng, chị ơi!
“Thư cho chị” không đơn thuần là một cánh thư. Đó là một di cảo tình cảm, một tiếng vọng từ nơi xa, của người em nhớ thương một người chị – người tình, người tri kỷ hay người thân – đã bước sang bờ bên kia của ký ức. Nguyễn Bính qua bài thơ đã cho thấy: tình yêu không phải lúc nào cũng nở hoa, nhưng nó luôn để lại hương. Và đôi khi, thơ chỉ là cách để người ta sống sót sau những đổ vỡ.
Trong men rượu, Nguyễn Bính viết bằng nước mắt. Nhưng với người đọc, bài thơ lại như một lời thì thầm: hãy sống với yêu thương, dù có bị bỏ lại, bởi chỉ có tình yêu mới khiến thơ Nguyễn Bính mãi xanh trong lòng người.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý