Thưa mẹ con đi
I.
Giữa mùa chiến đấu
Chúng con lên đường
Con gái con trai đều đội mũ tai bèo
Con gái con trai đầu đi dép lốp
Quân phục xanh là tổ quốc may
Tiếng cười là đồng đội dạy
Chúng con gọi phía sau là kỷ niệm
Quyển nhật ký trắng ngần
– Nhật kỳ hành quân
Chúng con dành cho phía trước
– Thưa mẹ, con đi…
Nghẹn ngào muốn mẹ nói:
– Ừ thì con đi đi…
Cuối nẻo đường muôn ngàn tay mẹ vẫy
Chúng con đi trong gió những bàn tay…
II.
Đất nước thân yêu thành cao điểm diệt thù
Chúng con lớn nới từng quai súng mới
Bỗng chiều nào bâng khuâng con hỏi:
– Mẹ ơi sao mẹ nói
“Ừ, thì con đi đi…”?
– Có phải là, thưa mẹ
Cho con buổi lên đường
Giao con làm chiến sĩ
Mẹ chỉ giữ chữ “thì”
Nối căn phòng mẹ ở
Với chân trời con đi?
Con đi xa thương mãi
Một chữ “thì” chia ly…
III.
… Mười bảy năm
Con nhớ mùa hè ấy
Hoàng hôn vào thành phố
Theo con tàu đón con
Mắt mẹ hay sao hôm
Mà long lanh ngấn lệ
Con cúi đầu nói khẽ:
– Thưa mẹ, con lên đường
Mẹ thầm thì: con đi đi
Như cha con ngày đó…
Và nước mắt lặng lẽ
Mẹ đón vào áo dài
Không một hạt bùi ngùi
Thấm chân con bước tới…
IV.
Những năm xa…
Con đi bên đồng chí
Quen khẩu lệnh của ngày diệt Mỹ
Giục giã tâm hồn con
– “Tất cả xung phong!”
Con nhảy lên, với anh em, xông về phía giặc
Mặt đất quê hương làm tấm gương sáng rực
Soi bóng chúng con trong sông núi tự hào
Con biết phía sau, mẹ nhìn thấy từ lâu
Mẹ lại tiễn con bằng cái nhìn ao ước.
– Ừ, thì con đi đi
Mẽ sẽ chờ con từ phía trước!
– Con nhớ thằng lính ngụy
Quát: “Hầm đâu khai ra!”
Con nhìn hai mắt nó
Với họng súng là ba
Rồi con nhìn rất rõ
dáng của mẹ hôm nào
Vuốt tóc con mẹ bảo:
“- Rằng cho kịp anh em”
Vâng, con sẽ lặng im
Để nhìn vào tiếng nổ
Ở cuối đường con đi
V.
Nhưng con không chết đâu
Không thể nào chết được
Trong tiếng mẹ thầm thì
Giục con đi tới trước
Khi đường về hẹn ước
Mẹ lát dưới chân con
Khi ngàn đêm cămhờn
Mẹ tiễn con ra trận
Khi tình yêu bất tận
Mẹ nối một chữ “thì”
Ngày đất nước gian nguy
Lại sẵn sàng tất cả!
Mẹ ơi lòng con đó
Bao năm vẫn trở về
Để “Thưa mẹ, con đi”
Trước chặng đường mới mẻ
Bởi vì con hiểu mẹ
Lại sẵn sàng tiễn con
Bởi vì con hiểu hơn
Con là con hiếu thảo
Không quay đầu phản bội
Con đường mẹ tiễn đi…
Theo kháng chiến thần kỳ
Con bay lên bằng cánh
Của bàn tay thô nặng
Mẹ vẫy vẫy chào con
Trao con với nước non
Đưa con vào đội ngũ ?
(4-4-1971)
*
“Thưa mẹ, con đi” – Lời tiễn biệt và khúc tráng ca của một dân tộc
Có những cuộc chia ly không phải vì xa cách, mà là để tiến về phía trước. Có những giọt nước mắt không rơi xuống trong bùi ngùi, mà lặng lẽ thấm vào áo dài, tiễn người đi trong niềm tự hào. Thưa mẹ, con đi của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là bài thơ của một người lính trẻ lên đường, mà còn là bản trường ca của một thế hệ dâng trọn tuổi xuân cho đất nước, nơi mỗi cuộc chia ly đều mang theo cả niềm tin, hy vọng và sự tiếp nối thiêng liêng.
Lời tiễn biệt không chỉ của riêng ai
Ngay từ những câu thơ đầu, bài thơ đã tái hiện một không gian đầy khí thế của thế hệ thanh niên lên đường ra trận:
“Giữa mùa chiến đấu
Chúng con lên đường
Con gái con trai đều đội mũ tai bèo
Con gái con trai đầu đi dép lốp
Quân phục xanh là tổ quốc may
Tiếng cười là đồng đội dạy”
Không có sự phân biệt giữa nam và nữ, giữa cá nhân và tập thể. Tất cả đều khoác lên mình màu áo xanh của Tổ quốc, cùng nhau cười, cùng nhau bước đi, cùng nhau hướng về phía trước. Nhưng giữa khí thế hào hùng ấy, vẫn có một khoảng lặng đầy xúc động:
“Thưa mẹ, con đi…
Nghẹn ngào muốn mẹ nói:
Ừ thì con đi đi…”
Lời tiễn biệt ấy không chỉ của riêng một người mẹ, mà là của tất cả những người mẹ Việt Nam trong thời chiến. Họ không ngăn con mình lại, không giữ con ở bên mình, mà dẫu trong lòng đau thắt, vẫn động viên con lên đường vì đất nước.
Chữ “thì” – cây cầu nối giữa hậu phương và tiền tuyến
Tác giả đã khéo léo xây dựng hình ảnh chữ “thì”, một từ tưởng như nhỏ bé nhưng lại mang sức nặng của cả một cuộc chia ly và hi vọng:
“Mẹ chỉ giữ chữ ‘thì’
Nối căn phòng mẹ ở
Với chân trời con đi?”
Chữ “thì” như một nhịp cầu nối giữa hậu phương và tiền tuyến, giữa những gì thân thuộc và những gì đang chờ phía trước. Nó không chỉ là một lời tiễn biệt, mà còn là sự tiếp sức, là niềm tin rằng người ra đi sẽ trở về trong chiến thắng.
Người mẹ – hình ảnh bất tử trong lòng người lính
Hình ảnh người mẹ không chỉ xuất hiện trong những phút giây chia ly, mà còn đồng hành cùng người lính trên suốt chặng đường chiến đấu. Khi đối diện với kẻ thù, với cái chết cận kề, người lính vẫn nhớ đến lời mẹ dặn:
“Con nhìn hai mắt nó
Với họng súng là ba
Rồi con nhìn rất rõ
Dáng của mẹ hôm nào
Vuốt tóc con mẹ bảo:
– Rằng cho kịp anh em”
Người mẹ không chỉ là hậu phương, mà còn là điểm tựa tinh thần, là nguồn động lực để người lính vững bước trên con đường chiến đấu. Trong giây phút sinh tử, hình ảnh mẹ lại hiện lên, nhắc nhở con về lý tưởng, về con đường đã chọn, về niềm tin mà mẹ đã gửi gắm.
Không có sự hy sinh nào là vô nghĩa
Nhưng bài thơ không khép lại trong đau thương hay mất mát. Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định một chân lý: người lính có thể ngã xuống, nhưng lý tưởng, niềm tin, khát vọng của họ sẽ không bao giờ mất đi:
“Nhưng con không chết đâu
Không thể nào chết được
Trong tiếng mẹ thầm thì
Giục con đi tới trước”
Bởi vì những người mẹ vẫn luôn chờ con từ phía trước, bởi vì mỗi bước chân của người lính đều có mẹ dõi theo, tiếp sức. Người lính không chết, vì họ đã hòa vào đất nước, vào những chiến công, vào lịch sử hào hùng của dân tộc.
Lời kết
Thưa mẹ, con đi không chỉ là câu nói của một người lính trước giờ lên đường, mà là lời hẹn ước thiêng liêng của cả một thế hệ với đất nước, với nhân dân. Đó là lời tri ân dành cho những người mẹ, những người đã không giữ con ở lại cho riêng mình, mà gửi con đi với cả tình yêu và hy vọng.
Bài thơ không chỉ là câu chuyện của quá khứ, mà còn là bài học cho hiện tại và tương lai: mỗi thế hệ đều có một con đường riêng để đi, một trách nhiệm riêng phải gánh vác. Và dù con đường ấy có thay đổi ra sao, vẫn sẽ luôn có một người mẹ dõi theo, vẫn sẽ luôn có một đất nước chờ đón ngày trở về.
*
Nguyễn Khoa Điềm – Nhà thơ và Nhà chính trị Việt Nam
Nguyễn Khoa Điềm (sinh ngày 15/4/1943), tên thật là Nguyễn Hải Dương, là một nhà thơ, nhà chính trị nổi bật của Việt Nam. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin và Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X.
Sinh ra tại Thừa Thiên Huế, Nguyễn Khoa Điềm xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn hóa, là con trai của nhà báo Hải Triều. Ông học tập tại miền Bắc và tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964. Sau đó, ông vào miền Nam tham gia phong trào học sinh, sinh viên, hoạt động trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vừa chiến đấu vừa sáng tác thơ ca.
Nguyễn Khoa Điềm được biết đến với những tác phẩm mang đậm chất sử thi và tinh thần yêu nước. Tiêu biểu nhất là trường ca Mặt đường khát vọng (1974), tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần dân tộc và tư tưởng về đất nước, con người Việt Nam. Ngoài ra, ông còn có nhiều tập thơ giá trị như Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007), và được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
Sau khi nghỉ hưu, ông sống tại Huế, tiếp tục đóng góp cho văn học nước nhà bằng những tác phẩm giàu ý nghĩa. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến và văn học Việt Nam hiện đại.
Viên Ngọc Quý.