Cảm nhận bài thơ: Thuyền về bến cũ – Thiền sư Nhất Hạnh

Thuyền về bến cũ

 

Chiều nay trên bến sông

Một con thuyền nan ghé

Gió mênh mông ru không gian lặng lẽ

Nước mênh mông hòa tiếng vỗ trong thanh…

Bến cũ

Thuyền xưa

Hương ý cũ

Buồm xuôi thuận gió một trời thơ

Tháng năm qua, bến lặng lẽ mong chờ

Vui sóng gió thuyền đi trong quên lãng

Nhìn phương xa: cả cuộc đời tươi sáng

Ước mơ đâu ? Ta chỉ thấy phong sương

Thuyền ta đi trong giông tố, lạc đường

Đón trăng gió, đón ảo hình ảo tượng

Sóng gió nổi cho thuyền thêm vất vưởng

Địa bàn đâu? Ta nhắm hướng trăng sao

Nhưng sao băng và biển dậy ba đào

Mây phủ kín, màn vô minh kế tiếp

Mà thôi ! mặc giông tố, mặc mưa gào, gió rít

Thuyền băng đi, không kể hướng Đông Tây

Trong biển đời tiếng gầm thét cuồng say

Cả một trời buồn thương và sầu khổ

Vừa thế gian vừa niết bàn hiển lộ

Trong âm thanh trong màu sắc trong hoa hương

Biển đời là trăm vị thắm như đường

Và cũng chứa nhiều chua cay đắng chát

Là tất cả những hoa hương ngào ngạt

Lẫn trong hơi gió thoảng khí tanh hôi

Nhìn xem kia : trăng tạnh, gió ngưng rồi

Cảnh sắc ấy huy hoàng và kiều diễm

Nhưng trong bóng mây xa còn ẩn hiện

Cả màu tang và sắc tím phôi pha

Thấy không? nghe không? khúc ca ngợi gần xa

Của tâm linh qua nhịp hồn nghệ sĩ

Hãy lắng nghe tiếng kêu thương rền rĩ

Dậy trời cao những sóng gió bất công

Trở về đi ! chiếc thuyền cũ lạc dòng

Đời là khổ, biển đời đầy đau khổ

Tìm chỉ nam, quay về đây, sinh lộ

Trở về đi, nương bóng mát sông xưa

Trở về đi, ta nằm nghỉ bến Mơ

Ôn lại quãng thời gian đùa mây nước

Chiều nay, trên bến sông,

Một con thuyền nan ghé

Gió mênh mang ru không gian lặng lẽ

Nước mênh mang hòa tiếng vỗ trong thanh

Chiếc thuyền xưa về bến cũ thanh bình

Ngủ dưới gốc đa già muôn vạn tuổi

Nằm im đấy, ngoài kia là sôi nổi

Cảnh trầm luân, thôi nghĩ đến mà chi ?

Nhưng mà không, ta thấy ta phải đi

Gặp sóng gió ba đào đầy lạc thú

Ồ sống lại êm đềm nơi bến cũ

Buồn, ta buồn trông biển rộng sóng mênh mang

Ngay đêm nay ta lại muốn lên đàng

Chiếc thuyền cũ, buồm xưa, không ngợp sóng

Vui chi về cùng bến sông trong lặng

Thôi ta đi đối phó ngọn cuồng phong

Thuyền ta đi muôn dặm nước bềnh bồng

Mặc, ta muốn trôi hoài trong sóng gió

Để rèn luyện tâm hồn trong đau khổ

Để nếm mùi mặn lạt nước muôn sông

Để rồi đây nhen nhúm ngọn lửa hồng

Sưởi ấm cả mọi lòng trong vạn hải

Gió bốn phương, chiếc buồm run, tê tái

Buồm vẫn căng, vẫn sải gió say sưa

Còn gì hơn gương đẹp đẽ ngày xưa

Bao đại sĩ lăn mình trong cứu khổ

Đây ánh hải đăng, huy hoàng, sáng tỏ

Ta không lầm : ánh sáng của uy linh

Ta hò lên, vang khúc hát thanh bình

“Ơi ai ơi, về đi, đừng chậm bước

Buồm căng lên, hướng về phương mây nước

Về đi thôi, về với bến đò xưa !”

Thuyền ta đi, đi mãi trong say sưa

Dồn dập lướt trên vạn trùng sóng cả

Thuyền không nghiêng, ta nhờ bao phép lạ

Một hướng về, tin tưởng, sẽ thành công

Thuyền ta đi, ngang dọc khắp muôn dòng

Mặc cho ai trở về nơi bến cũ

Ngủ im lìm dưới trăng mơ đoàn tụ

Bờ Giác đây, thuyền hẹn bến sông xưa

Từ ra đi không khắc khoải mong chờ

Ta sẽ ghé một chiều trên bến vắng

Đâu bến cũ ? Là bến lòng vô tận

Ngút không gian, dồn dập sóng thời gian

Và đau thương là nhân của huy hoàng

Để ánh sáng của bình minh rạng chiếu

Đâu cũng sẽ có trăng vàng huyền diệu

Đẹp lung linh nước lồng ánh trăng tươi

Gió trần gian quạt tắt lửa luân hồi

Mưa thế tục gội từ tâm thấm nhuận

Bếp chiều lạnh, một ông già cẩn thận

Liếp phên thưa che gió tạt trên mui

Mái chèo kia theo hướng nước mây trôi

Từ hiện tượng, thuyền quay về bản thể.

Và chiều nay, trên bến sông,

Có con thuyền nan ghé

Gió mênh mang ru không gian lặng lẽ

Mơ trăng sao và trời nước mông mênh

Hãy hò lên, vang khúc hát thanh bình :

“Ơi ai ơi, về đi, đừng chậm bước

Buồm căng lên, hướng về phương mây nước

Về đi thôi ! về với bến đò xưa !”

(Bài thơ nằm trong tuyển tập “Thơ học trò”)

*

Về lại bến xưa – Hành trình giác ngộ giữa giông tố trần gian

Trong hành trình tâm linh đầy khắc khoải của con người, có lẽ hình ảnh chiếc thuyền trôi giữa đại dương sóng gió là một biểu tượng vừa đẹp vừa thấm thía nhất. Bài thơ “Thuyền về bến cũ” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sáng tác trong thời niên thiếu, không chỉ là một thi phẩm giàu cảm xúc mà còn là một bản trường ca tâm thức, mang sức lay động lớn lao về sự tỉnh thức, về lựa chọn giữa an trú và dấn thân, giữa nghỉ ngơi và lên đường.

Bài thơ mở đầu như một bức tranh chiều yên ả:

Chiều nay trên bến sông
Một con thuyền nan ghé

Gió mênh mang ru không gian lặng lẽ
Nước mênh mang hòa tiếng vỗ trong thanh…

Khung cảnh ấy như một bến Mơ, nơi bình yên, nơi người lữ khách từng trải quay về sau bao tháng năm lưu lạc. Bến cũ, thuyền xưa, hương ý cũ – tất cả đều gợi nhắc về một nơi chốn thanh tịnh, nơi mà tâm hồn có thể ngơi nghỉ khỏi mọi xô bồ và cuồng loạn của đời sống.

Nhưng rồi, ký ức về hành trình lênh đênh trên đại dương cuộc đời ùa về: giông tố, mây mù, sao lạc, địa bàn không rõ hướng đi. Chiếc thuyền như tượng trưng cho chính thân tâm con người, lúc thì bị cuốn vào ảo ảnh phù hoa, lúc thì chao đảo vì tham vọng, khổ đau:

Thuyền ta đi trong giông tố, lạc đường…
Mây phủ kín, màn vô minh kế tiếp…

Rồi giữa lúc tưởng chừng muốn quay về bến cũ nghỉ ngơi, thi sĩ lại chợt tỉnh thức, hiểu ra ý nghĩa sâu xa của dấn thân:

Nhưng mà không, ta thấy ta phải đi
Gặp sóng gió ba đào đầy lạc thú

Không phải vì chán bình yên, cũng chẳng phải vì ham giông tố, mà là vì một lý tưởng cao đẹp hơn: đi để hiểu, để rèn luyện, để chia sẻ ánh sáng từ trái tim tỉnh thức đến mọi phương trời:

Để rồi đây nhen nhúm ngọn lửa hồng
Sưởi ấm cả mọi lòng trong vạn hải

Đó là lý tưởng của Bồ Tát hạnh – những người không chọn Niết bàn an vui cho riêng mình, mà tình nguyện quay lại giữa cõi đời khổ lụy để cứu độ muôn loài. Dù trong bão giông, buồm vẫn căng, tim vẫn bền, niềm tin vẫn cháy:

Thuyền ta đi muôn dặm nước bềnh bồng
Mặc, ta muốn trôi hoài trong sóng gió

Không phải chiếc thuyền nào cũng đi đến bờ giác, nhưng chiếc thuyền của thiền sư Thích Nhất Hạnh là biểu tượng cho sự cam kết không lùi bước trên con đường tỉnh thức, dù phải vượt trùng khơi của tham ái, vô minh và phiền não.

Bài thơ không kết thúc bằng sự trở về, mà bằng tiếng gọi trở về:

Ơi ai ơi, về đi, đừng chậm bước
Buồm căng lên, hướng về phương mây nước
Về đi thôi ! về với bến đò xưa !

Nhưng bến xưa ở đây không còn chỉ là một bờ sông, một gốc đa, một chiều bình yên. Bến xưa chính là cội nguồn tâm thức, là nơi từ đó ta ra đi và cũng là nơi ta trở về, không phải bằng thân xác mà bằng sự giác ngộ. Đó là nơi “từ hiện tượng, thuyền quay về bản thể” – nơi mọi ảo ảnh tan biến và chân lý hiện bày.

“Thuyền về bến cũ” không chỉ là một bài thơ, mà là một hành trình nội tâm sâu sắc. Thiền sư đã dùng hình ảnh chiếc thuyền nhỏ bé để nói về kiếp người, về lý tưởng độ sinh, về cái đẹp không nằm ở sự an toàn mà ở sự vượt thoát. Và hơn thế nữa, ngài khơi dậy trong lòng người đọc một khát vọng sống lớn lao hơn cả hạnh phúc riêng: khát vọng tìm thấy ánh sáng giữa trùng khơi đời sống, và chia sẻ ánh sáng ấy cho thế gian.

Trong tiếng vỗ của dòng sông chiều nay, giữa gió lặng và trăng lên, ta nghe vang vọng lời mời đầy từ bi:

Ơi ai ơi, về đi, đừng chậm bước…

Một lời gọi – cũng là một lời nhắc: về với chính mình, về với bến giác, về với sự tỉnh thức đang chờ sẵn trong tim ta.

*

Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm

Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.

Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.

Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.

Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.

Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100mđược đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.

Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *