Tiếng súng đêm xuân
Đêm phẳng lặng, tôi đang nằm thao thức,
Phòng vắng tanh, lòng cũng vắng mông mênh.
Bỗng bên sông loạt tiếng súng bắn vang rền,
Như những mảnh tình Xuân tan tác đổ.
Kêu chan chát đạn vèo, liên tiếp nổ,
Lửa lập loè như những ánh ma trơi.
Kế tiếp nhau ngã gục những bóng người
Lẫn tiếng súng, tiếng kêu gào: “Giết, Giết!”
Ai say máu, chém đâm nhau ác liệt?
Ai rên la thảm thiết, khóc kêu vang?
Tâm hồn tôi mỏng mảnh nát tan hoang,
Hai ngấn lệ ứa tràn đôi mí mắt.
Trời đất hỡi, lại bao nhiêu xác chết!
Máu căm thù, ghi mãi hận giang san?
Bao vết thương non nước vẫn chưa hàn,
Xuân tái tạo, phũ phàng, ai hấp hối?…
Tiếng ai oán, ai gào trong đêm tối?
Lời trối trăn ai gởi gió sương khuya?
Ai thân yêu, nhắn nhủ lúc chia lìa,
Đang quằn quại rỉ rên bên vũng máu!
Trời u trệ, đìu hiu sao Bắc Đẩu,
Mây chập chồng xây đắp ải sầu tang
Đêm không trăng, bưng bít cả trần hoàn,
Gà mớ gáy, kinh hoàng trong yểm mộng…
Súng đua nổ ầm ầm rồi im bẵng
Hạt mưa xuân nằng nặng rớt trên hiên…
Ai có nghe trong đêm thẳm vô biên
Tiếng gió mới gọi hồn non nước cũ?…
Ai có thấy muôn vạn mồ vô chủ?
Đoàn thanh niên đang tiến tới ngày mai
Đang hân hoan rèn đúc chí anh tài
Bỗng ngã gục, không một lời vĩnh biệt!
Mỗi xác chết, một linh hồn nước Việt,
Mỗi nấm mồ, là một mảnh tim ta.
Xuân muôn màu ngào ngạt nở muôn hoa
Là mạch máu chan hoà trong mạch đất!
Mỗi nhánh lá, một hồn thiêng phảng phất,
Mỗi tim hoa, nước mắt đọng thành sương.
Cả non sông là một hận xuân trường,
Của thế hệ loạn cuồng trai đất Việt!
Ôi buồn lắm! Lòng ta buồn da diết!
Ta xót thương những số kiếp tài ba,
Nợ phong trần đã vướng tuổi niên hoa
Còn thử thách đá vàng thêm Quốc hận!
Một lớp trẻ chôn vùi ngoài chiến trận,
Đã đem xương đem máu đắp xây mồ.
Một lớp sau còn sống sót, bơ vơ,
Khóc cũng dở, mà cười càng thêm dở!
*
Đêm xuân nay, nước mắt trào nức nở,
Nghe vang rền tiếng súng nổ bên sông.
Gà gáy khuya, tỉnh giấc mộng hãi hùng,
Tôi mở cửa, gió lồng, ơn ớn lạnh.
Mưa rỉ rả, thắm tê lòng cô quạnh,
Tôi ra đi như một đứa lạc loài,
Bước âm thầm không muốn biết ngày mai.
Nha Trang đêm xuân 1961
*
TIẾNG SÚNG ĐÊM XUÂN – ÂM VANG CỦA BI THƯƠNG VÀ MẤT MÁT
Khi Xuân Không Phải Là Sự Đoàn Viên
Mùa xuân, đáng lẽ là mùa của đoàn tụ, của những niềm vui sum vầy, lại mở ra trong bài thơ Tiếng súng đêm xuân của Nguyễn Vỹ bằng sự lạnh lẽo và mất mát. Không phải tiếng pháo giao thừa rộn ràng, mà là những tiếng súng rền vang bên dòng sông, xé toạc bầu không khí yên ắng của đêm xuân:
Bỗng bên sông loạt tiếng súng bắn vang rền,
Như những mảnh tình Xuân tan tác đổ.
Tác giả không chỉ chứng kiến một cuộc chiến đẫm máu, mà còn nhìn thấy cả một mùa xuân đang đổ nát. Tiếng súng không chỉ giết chết những con người, mà còn bắn nát cả niềm hy vọng về một tương lai bình yên.
Nỗi Đau Như Xé Lòng Người
Bài thơ là một khúc ca bi thương về vận mệnh của những con người vô danh, những người ngã xuống mà không một lời từ biệt. Giữa tiếng súng, tiếng kêu gào của những người đang hấp hối hòa lẫn vào màn đêm, như một bản thánh ca của đau khổ và tuyệt vọng:
Ai say máu, chém đâm nhau ác liệt?
Ai rên la thảm thiết, khóc kêu vang?
Câu hỏi vang lên mà không có lời đáp, như chính số phận nghiệt ngã của những con người bị cuốn vào vòng xoáy chiến tranh. Họ có thể là những chàng trai trẻ đầy hoài bão, là những người cha, người con trong một mái nhà nào đó, nhưng rồi tất cả ngã xuống trong đêm tối, không ai hay, không ai biết.
Ai thân yêu, nhắn nhủ lúc chia lìa,
Đang quằn quại rỉ rên bên vũng máu!
Hình ảnh quá đỗi xót xa! Giữa cái rét của đêm xuân, những con người ấy đang hấp hối, để lại những lời trăn trối không ai nghe thấy. Không chỉ có máu, mà còn có những giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống trên nấm mồ vô danh.
Xuân – Một Màu Hận Chứ Không Phải Hy Vọng
Mùa xuân trong bài thơ này không còn là biểu tượng của sự tái sinh hay hạnh phúc. Xuân vẫn nở muôn hoa, nhưng mỗi đóa hoa ấy lại thấm đẫm máu của những người đã ngã xuống:
Xuân muôn màu ngào ngạt nở muôn hoa
Là mạch máu chan hoà trong mạch đất!
Một hình ảnh đầy ám ảnh! Những bông hoa rực rỡ kia không phải là dấu hiệu của sự sống, mà là minh chứng cho cái chết, là sự tiếp nối của những linh hồn còn vương vấn trên đất mẹ. Mỗi chiếc lá, mỗi giọt sương đều mang theo nỗi đau của cả một dân tộc.
Cả non sông là một hận xuân trường,
Của thế hệ loạn cuồng trai đất Việt!
Tác giả không chỉ thương tiếc những người đã khuất, mà còn đau đớn cho thế hệ còn sống. Một lớp thanh niên đã ngã xuống nơi chiến trường, một lớp còn lại thì lạc lõng giữa cuộc đời, không biết khóc hay cười. Chiến tranh không chỉ lấy đi mạng sống, mà còn lấy đi cả niềm tin, cả lý tưởng của những con người trẻ tuổi.
Nỗi Cô Đơn Của Người Chứng Nhân
Bài thơ kết thúc trong sự đơn độc của chính tác giả. Sau tất cả những gì đã chứng kiến, Nguyễn Vỹ rời đi trong đêm, như một kẻ lạc loài giữa quê hương mình:
Tôi ra đi như một đứa lạc loài,
Bước âm thầm không muốn biết ngày mai.
Hình ảnh ấy chính là hình ảnh của cả một thế hệ – những con người bị đẩy vào cuộc chiến mà họ không mong muốn, bị buộc phải chứng kiến những mất mát mà họ không thể ngăn cản.
Lời Kết – Tiếng Súng Đêm Xuân Còn Vang Đến Mãi Sau Này
Bài thơ Tiếng súng đêm xuân không chỉ là một khúc ca bi tráng về chiến tranh, mà còn là tiếng nói của một tâm hồn nhạy cảm, đau đáu trước vận mệnh dân tộc. Mỗi tiếng súng nổ ra không chỉ cướp đi một sinh mạng, mà còn để lại một vết thương sâu hoắm trong lòng những người còn sống.
Và dù cuộc chiến có kết thúc, dù mùa xuân vẫn tiếp tục quay về theo vòng tuần hoàn của thời gian, thì những nỗi đau ấy vẫn sẽ còn đó, như một vết hằn không thể phai nhòa trong ký ức dân tộc.
*
Nguyễn Vỹ – Nhà thơ, nhà báo kiên định với lý tưởng
Nguyễn Vỹ (1912 – 1971) là một nhà thơ, nhà báo nổi bật trong nền văn học Việt Nam thời tiền chiến. Ông không chỉ được biết đến qua hai bài thơ gây tiếng vang: Gởi Trương Tửu và Sương rơi, mà còn ghi dấu ấn với nhiều tác phẩm đa dạng từ thơ ca, tiểu thuyết đến biên khảo.
Sinh tại Quảng Ngãi, Nguyễn Vỹ sớm bộc lộ tư tưởng yêu nước, từng nhiều lần bị bắt giam vì các hoạt động chống thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ông cũng là người sáng lập nhiều tờ báo như Việt – Pháp, Tổ quốc, Dân chủ, Dân ta, trong đó tạp chí Phổ Thông được đánh giá cao về văn học và nghệ thuật.
Thơ Nguyễn Vỹ mang phong cách riêng biệt, thể nghiệm nhiều lối viết mới. Dù từng bị phê phán, nhưng ông vẫn kiên trì theo đuổi con đường sáng tạo, để lại dấu ấn với những tác phẩm thể hiện nỗi trăn trở về xã hội và vận mệnh con người.
Ông qua đời năm 1971 do tai nạn giao thông, khép lại cuộc đời một người cầm bút nhiệt huyết, dấn thân không ngừng vì văn chương và tư tưởng.
Viên Ngọc Quý.