Tình mai sau
Ngày thuở ấy, lâu rồi tôi đã chết,
Tháng năm qua chôn lấp mộ hoang tàn,
Hoà với đất, mình tôi thôi đã hết,
– Nhưng hương hồn còn luyến ở không gian…
Đi sao được khi mặt trời vẫn nở
Bỏ sao đang những mái ngói yên buồn;
Đường rất lặng, với hàng cây hay nhớ,
Xa sao đành mắt đẹp của hoàng hôn!
Tay ân ái như những làn thân thể
Đã ôm đời vào ngực để mơn ru…
Thu biếc tỏ, hè nâu thơm vị quế,
Xuân như đàn, đông cũng quyện đường tơ.
Khi còn sống tôi vẫn hằng tan nát
Mỗi phen đau, lòng vỡ lại tràn rơi;
Tình rải khắp. Huống là khi đã thác.
Sao không tan lưu chuyển giữa vòng đời?
Tôi vẫn có hồn tôi trong gió ấy,
Vì xưa kia ngồi nghỉ dưới trăng sao,
Từng mảnh biếc hồn tôi trăng đã lấy,
Gió đem luôn đi tận tháng năm nào.
Lòng tôi đã thẩn thơ cùng bãi vắng,
Thì muôn sau bãi vắng nhắc lòng tôi.
Từ thế kỉ mờ chân trên cát trắng,
Như sóng lên còn gợi ngực bồi hồi.
Cổ tôi đó lúc chim ngàn vọng hát;
Mộng tôi còn khi trời biếc lên sao,
Suối thương nhớ thầm qua trong bóng mát,
Trái tim chiều than thở giữa lau cao.
Người thi sĩ đã vào làng mây khói,
Không ở đâu và ở khắp mọi nơi.
Như tiếng vọng trong sương xa dắng dỏi,
Máu vu vơ thơ giữa trái tim đời.
*
Chiều mai mốt trong tương lai thân mến,
Một nàng tơ dạo bước dưới hàng cây.
Hơi gió thở như ngực người yêu đến,
Bướm đâu bay xinh cả buổi chiều này…
Gió rên rỉ như lời ai thuở trước;
Trời nhung mơn như lòng ấy xưa yêu;
Không khí thì êm – đêm sương khẽ bước,
Xưa tìm ai mơn trớn cũng như chiều…
Tình tự quá, thiêng liêng êm ái quá…
Thơ ở đâu thong thả xuống đường mưa…
Những hoa quí toả hương vương giả…
Mây đa tình như thi sĩ đời xưa…
Môi hé nở, nàng tơ tay vịn lá,
Bước xinh xinh đứng lại; mắt dâng đầy…
Vòng sẽ khép, chiều ôm thân óng ả.
Gió qua người, làm động má thơ ngây…
Rằng: “Tiếng ai? – Người-thơ ở đâu đây?…”
1939
*
“Tình Mai Sau” – Khi Hồn Thơ Hóa Thành Vĩnh Cửu
Thơ Xuân Diệu vốn tràn đầy khát vọng sống, yêu cuồng nhiệt và tận hiến cho đời. Nhưng trong Tình mai sau, ta bắt gặp một giọng thơ khác: tĩnh lặng, sâu lắng và nhuốm màu vĩnh cửu. Ở đó, không còn là nỗi sợ thời gian trôi chảy vô tình hay niềm đau mất mát, mà là sự hóa thân của một tâm hồn vào dòng đời, vào thiên nhiên, để mãi mãi lưu dấu trong vạn vật.
Cái chết không làm mất đi một tâm hồn yêu đời
Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu tưởng tượng về cái chết của chính mình:
“Ngày thuở ấy, lâu rồi tôi đã chết,
Tháng năm qua chôn lấp mộ hoang tàn,
Hoà với đất, mình tôi thôi đã hết,
– Nhưng hương hồn còn luyến ở không gian…”
Những câu thơ phảng phất nét buồn man mác, nhưng không phải là nỗi u hoài tuyệt vọng. Nhà thơ ý thức được sự hữu hạn của đời người, nhưng cũng đồng thời khẳng định rằng cái chết không thể xóa nhòa đi một tâm hồn đã từng yêu tha thiết. “Hương hồn” ấy vẫn còn lưu luyến, vương vấn giữa nhân gian, trong không gian vô tận của cuộc sống.
Cái chết ở đây không phải là sự lụi tàn, mà là một sự hòa tan vào thiên nhiên, để tiếp tục sống trong từng làn gió, từng ánh nắng, từng buổi chiều tà.
Khi con người tan vào thiên nhiên
Thiên nhiên trong Tình mai sau không chỉ là bối cảnh mà còn là nơi dung chứa linh hồn thi sĩ:
“Đi sao được khi mặt trời vẫn nở
Bỏ sao đang những mái ngói yên buồn;
Đường rất lặng, với hàng cây hay nhớ,
Xa sao đành mắt đẹp của hoàng hôn!”
Những câu thơ ấy thể hiện một tình yêu cuộc sống mãnh liệt đến tận cùng. Ngay cả khi đã mất đi, nhà thơ vẫn không thể dứt khỏi những điều giản dị mà tha thiết: ánh mặt trời, mái nhà trầm mặc, con đường lặng lẽ, hàng cây trầm tư và nhất là “mắt đẹp của hoàng hôn” – như thể chính bóng chiều tà cũng mang trong mình một linh hồn.
Với Xuân Diệu, cái chết không đồng nghĩa với sự chia lìa. Ngược lại, nhà thơ đã hòa vào thiên nhiên, để tiếp tục yêu và sống theo một cách khác:
“Tôi vẫn có hồn tôi trong gió ấy,
Vì xưa kia ngồi nghỉ dưới trăng sao,
Từng mảnh biếc hồn tôi trăng đã lấy,
Gió đem luôn đi tận tháng năm nào.”
Có thể nói, nhà thơ đã hóa thân vào thiên nhiên, để hồn thơ mình còn mãi với cuộc đời.
Người thi sĩ bất tử trong dòng chảy thời gian
Tình mai sau không chỉ là một bài thơ về sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên, mà còn là lời khẳng định về sự bất tử của thi ca. Những dòng thơ sau đây đã thể hiện trọn vẹn quan niệm ấy:
“Người thi sĩ đã vào làng mây khói,
Không ở đâu và ở khắp mọi nơi.
Như tiếng vọng trong sương xa dắng dỏi,
Máu vu vơ thơ giữa trái tim đời.”
Nhà thơ đã không còn là một thực thể hữu hình, nhưng thơ ca thì vẫn còn vang vọng khắp chốn. “Không ở đâu và ở khắp mọi nơi” – một sự phủ định hữu hình để khẳng định sự hiện diện bất diệt. Giống như gió, như mây, như ánh trăng, thơ ca của người thi sĩ sẽ mãi mãi là một phần của cuộc đời, tiếp tục chảy trôi theo dòng thời gian.
Tình yêu tiếp tục lan tỏa qua những thế hệ sau
Trong phần cuối của bài thơ, Xuân Diệu vẽ lên một viễn cảnh đẹp đẽ: một thiếu nữ trong tương lai, dạo bước trong buổi chiều yên ả, bỗng dưng cảm nhận được hơi thở của một linh hồn thi sĩ xa xưa:
“Chiều mai mốt trong tương lai thân mến,
Một nàng tơ dạo bước dưới hàng cây.
Hơi gió thở như ngực người yêu đến,
Bướm đâu bay xinh cả buổi chiều này…”
Tình yêu trong thơ không mất đi, mà tiếp tục lan tỏa qua những thế hệ sau. Nàng thiếu nữ của tương lai không biết đến thi sĩ ngày xưa, nhưng vẫn cảm nhận được một điều gì đó rất đỗi thiêng liêng trong gió, trong hoa, trong ánh chiều tà. Và rồi, nàng bất giác thốt lên:
“Rằng: ‘Tiếng ai? – Người-thơ ở đâu đây?…'”
Câu hỏi khép lại bài thơ mà như mở ra một cánh cửa vô tận: phải chăng, thơ ca vẫn luôn tồn tại trong mọi thời đại, trong những tâm hồn biết yêu, biết rung động trước cái đẹp?
Lời kết
Tình mai sau là một bài thơ thấm đẫm chất triết lý và tình cảm. Nó không chỉ là một suy tư về sự sống và cái chết, mà còn là lời tuyên ngôn về sự bất tử của thơ ca và tình yêu. Xuân Diệu, dẫu có rời xa cõi đời này, nhưng những vần thơ của ông vẫn còn mãi, như gió, như trăng, như sóng biển không ngừng ngân vang.
Và có lẽ, mỗi khi ta bước đi trong một buổi chiều lặng lẽ, khi gió thoảng qua da, khi nắng nhẹ chạm vai, khi lòng bất giác thấy bồi hồi – đó chính là lúc ta đang chạm vào một mảnh hồn thơ xưa, vẫn còn đâu đây, giữa vòng xoay bất tận của cuộc đời.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý