Tội ác phá rừng
Sức xuân vùn vụt đang lên,
Líu lo chim hót, triền miên suối đàn,
Mây trời lẫn với mây đan,
Mênh mông rừng phủ ngút ngàn áo xanh…
Giặc Mỹ can thêm tội ác phá rừng!
Rừng của miền Nam đẹp giàu, trong sạch,
Mỹ thuốc độc, Mỹ vi trùng dịch hạch
Giặc Mỹ vào mưu phá sạch rừng Nam!
Mơ màng sắc tím cẩm lai,
Giáng hương sực nức không phai mùi trầm;
Ước ao phản gỗ em nằm;
Cam xe muốn dựa, muốn cầm thau lau…
Đâu là rừng gỗ quí, của trên non,
Đâu ở ven rừng những làng sơn cước,
Đâu những địa đàng long lanh vườn tược,
Giặc Mỹ sợ cây bởi nó sợ người!
Ngoài ta tưới nước che sương
Ba xuân mầm biếc xanh nương rợp đồi;
Cụ già tuổi đã bảy mươi
Trồng trăm cây quả cho người sau ăn…
Xót trong ta thuốc độc Mỹ đê hèn
Cây rụng lá chết ngọn ngành đến gốc,
Khoai tượt vỏ khoai thối liền trong đất,
Chuối rục mình, rụi mít, héo sầu riêng!
Chúng nó bây giờ sống sót nhờ thuốc độc!
Một dạ dày chật ních những nhân ngôn,
Thuốc bả chuột, vi trùng đầy nước bọt:
Biết sự tình, cả nhân loại buồn nôn!
Trước khôn lường nổi dậy những tầm vông,
Nay khó cản cây về theo Cách mạng.
Cờ của nhân dân ngày càng tỏ vang,
Thiên nhiên không ngừng ủng hộ chúng ta!
*
Một máy bay bốn mươi chín ngôi sao
Nát dúm thân hình, nằm chỏng gọng,
Bốn mươi chín ngôi sao, bốn mươi chín ngôi sao
Rơi xuống bàn ô nhục – Vì sao?
1-3-1962
*
“Tội Ác Phá Rừng” – Lời Cáo Trạng Căm Hờn Trước Sự Tàn Phá Của Giặc Mỹ
Xuân Diệu không chỉ là nhà thơ của tình yêu, của cái đẹp, mà còn là một chiến sĩ cách mạng với ngòi bút sắc bén, sẵn sàng vạch trần tội ác của kẻ thù. Bài thơ Tội ác phá rừng là một bản cáo trạng đanh thép, lên án hành vi tàn bạo của Mỹ trong cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Bài thơ vừa mang nỗi đau xót trước sự hủy diệt của thiên nhiên, vừa khơi dậy tinh thần đấu tranh kiên cường của nhân dân để bảo vệ quê hương, bảo vệ những cánh rừng đại ngàn.
Rừng – Vẻ Đẹp Và Sự Sống
Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống:
Sức xuân vùn vụt đang lên,
Líu lo chim hót, triền miên suối đàn,
Mây trời lẫn với mây đan,
Mênh mông rừng phủ ngút ngàn áo xanh…
Rừng không chỉ là cây cỏ, mà còn là hơi thở của đất trời, là nơi chim ca ríu rít, suối chảy dịu êm, là sắc xanh bạt ngàn của sự sống. Thiên nhiên ấy không chỉ đẹp về cảnh sắc, mà còn là biểu tượng cho sức mạnh trường tồn của quê hương, là nguồn sống của con người.
Nhưng rồi, kẻ thù đã giáng xuống cánh rừng một tội ác không thể dung thứ.
Giặc Mỹ – Kẻ Hủy Diệt Thiên Nhiên
Giặc Mỹ can thêm tội ác phá rừng!
Rừng của miền Nam đẹp giàu, trong sạch,
Mỹ thuốc độc, Mỹ vi trùng dịch hạch
Giặc Mỹ vào mưu phá sạch rừng Nam!
Không chỉ giết hại con người, chúng còn hủy hoại cả thiên nhiên. Chất độc hóa học được rải xuống những cánh rừng bạt ngàn, biến nơi đây thành những vùng đất chết. Mỹ không chỉ mang bom đạn đến mà còn gieo rắc những thứ vũ khí vô hình, tàn phá sự sống một cách ghê rợn và lâu dài.
Chúng không chỉ phá rừng vì mục đích quân sự, mà còn vì một nỗi sợ hãi mù quáng:
Đâu là rừng gỗ quí, của trên non,
Đâu ở ven rừng những làng sơn cước,
Đâu những địa đàng long lanh vườn tược,
Giặc Mỹ sợ cây bởi nó sợ người!
Chúng biết rằng rừng là chỗ dựa của nhân dân, là căn cứ của cách mạng, là nơi che chở cho những người con của đất nước. Vì thế, chúng quyết tâm hủy diệt rừng để triệt tiêu sức mạnh của ta. Nhưng chúng đâu biết rằng, con người Việt Nam không chỉ có rừng che chở, mà còn có ý chí kiên cường không gì lay chuyển.
Nỗi Đau Của Người Dân Trước Sự Tàn Phá
Ngoài ta tưới nước che sương
Ba xuân mầm biếc xanh nương rợp đồi;
Cụ già tuổi đã bảy mươi
Trồng trăm cây quả cho người sau ăn…
Hình ảnh cụ già bảy mươi tuổi vẫn chăm chút trồng cây cho thế hệ mai sau là biểu tượng của niềm tin và sự bền bỉ. Thế nhưng, tất cả công sức ấy bị giặc Mỹ hủy hoại không thương tiếc:
Xót trong ta thuốc độc Mỹ đê hèn
Cây rụng lá chết ngọn ngành đến gốc,
Khoai tượt vỏ khoai thối liền trong đất,
Chuối rục mình, rụi mít, héo sầu riêng!
Không chỉ cây rừng, mà cả những loại cây ăn trái – nguồn sống của bao thế hệ – cũng bị hủy diệt. Đọc những câu thơ này, ta không chỉ thấy sự xót xa mà còn cảm nhận được nỗi đau quặn thắt của nhà thơ trước cảnh thiên nhiên bị giày xéo, con người bị đẩy đến bờ vực của đói khát và khổ đau.
Tội Ác Của Giặc Mỹ Và Sự Phán Xét Của Nhân Loại
Chúng nó bây giờ sống sót nhờ thuốc độc!
Một dạ dày chật ních những nhân ngôn,
Thuốc bả chuột, vi trùng đầy nước bọt:
Biết sự tình, cả nhân loại buồn nôn!
Câu thơ chứa đựng sự phẫn nộ tột cùng. Những kẻ gieo rắc cái chết để duy trì sự sống của chính chúng, những kẻ nuốt trọn tội ác vào lòng và che giấu nó bằng những lời lẽ giả dối, cuối cùng cũng sẽ bị nhân loại lên án.
Niềm Tin Vào Chiến Thắng
Nhưng thiên nhiên luôn đứng về phía chính nghĩa, và nhân dân Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục:
Trước khôn lường nổi dậy những tầm vông,
Nay khó cản cây về theo Cách mạng.
Cờ của nhân dân ngày càng tỏ vang,
Thiên nhiên không ngừng ủng hộ chúng ta!
Dù rừng bị hủy diệt, dù cây bị chặt phá, nhưng lòng người vẫn sục sôi ý chí chiến đấu. Những cây tầm vông đã từng là vũ khí trong tay nghĩa quân, nay vẫn sẵn sàng vươn lên chống giặc. Lá cờ cách mạng vẫn tung bay, ngày càng rực rỡ hơn trong cuộc chiến chính nghĩa.
Kết thúc bài thơ là hình ảnh của sự trừng phạt tất yếu:
Một máy bay bốn mươi chín ngôi sao
Nát dúm thân hình, nằm chỏng gọng,
Bốn mươi chín ngôi sao, bốn mươi chín ngôi sao
Rơi xuống bàn ô nhục – Vì sao?
Những chiếc máy bay Mỹ – biểu tượng của sức mạnh chiến tranh – cuối cùng cũng bị đánh bại, rơi xuống như một sự nhục nhã, báo hiệu ngày tàn của kẻ thù. Đó chính là quy luật của lịch sử: kẻ gieo gió ắt sẽ gặt bão, và những kẻ xâm lược không bao giờ thoát khỏi sự phán xét của công lý.
Lời Kết
Tội ác phá rừng không chỉ là một bài thơ lên án sự tàn bạo của giặc Mỹ, mà còn là một lời hiệu triệu cho tinh thần đấu tranh bảo vệ quê hương, bảo vệ thiên nhiên. Với ngôn từ mạnh mẽ, hình ảnh đầy sức gợi, Xuân Diệu đã khắc họa một cách chân thực nỗi đau của đất nước, đồng thời thổi bùng lên ngọn lửa căm hờn và ý chí quật cường của dân tộc.
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, bài thơ vẫn còn nguyên giá trị. Nó nhắc nhở chúng ta rằng thiên nhiên là một phần của quê hương, và bảo vệ thiên nhiên cũng chính là bảo vệ cuộc sống của chính mình. Và trên hết, nó là một minh chứng cho chân lý muôn đời: chính nghĩa luôn chiến thắng, và những kẻ tàn bạo cuối cùng sẽ phải trả giá!
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý