Tôi muốn đến thăm khắp cả miền Nam
Tôi muốn đi thăm mỗi làng mỗi nhà
Mỗi hàng rào bông bụt của miền Nam ta
Tôi muốn đến nghiêng đầu chào thương mỗi má
Thăm mỗi sợi tóc sương trên trán mỗi mẹ già.
Hai tháng rưỡi về thăm
Thấm vào đâu với ba mươi năm cách trở!
Chưa ôm hết tay thương, chưa chứa đầy mắt nhớ
Lòng tôi còn nguyên nợ với miền Nam
Tôi đã thăm những làng xóm nhớ thương
Vàng mái rạ, cả cọng rơm cũng nở
Những thành phố khổ đau và rạng rỡ
Gạt bóng còn dang dở – mở bình mình!
Tôi còn muốn thăm cho khắp hết bãi vắng rừng xa
Những xóm dăm nhà bà con chài lưới
Cá phơi khảm bạc trên vàng cát mới;
– Cát nơi đây đợi thêm đấu chân người
Hoặc đến bến sông có bóng thầu đâu
Qua cái con đò cùng với đôi cô gánh vải;
Hoặc mấy nhà sàn trên buôn bên suối,
Tiếng nai còn dắng dỏi cuối rừng xa…
Hoặc giữa xứ vườn biếc rợp bao la
Đến nỗi cũng không biết trưa hay là buổi sáng
Tôi ở giữa trâm bầu, đi trong bóng nhãn,
Hương cau hương mận cứ quẩn ngang đầu…
Và cuối vườn có một túp nhà con
Cái nhà hiền như nấm rơm, cái nhà thơm như quả chuối
Mái nhà thấp, tôi bước vào phải củi
– Và má muôn đời Nam Bộ vẫn chờ tôi
Má ngước đầu lên má biểu: “- Thằng Hai!
Gặp bữa, con ngồi xuống đây ăn cơm với má”
Tôi đột ngột chỉ biết ngồi rồi khẽ: “Dạ”!
Trong tay tôi cơm nắm đã bao giờ…
Má ơi, con yêu cái mùi bồ hóng ở nhà ta…
Ba mất đã lâu rồi, hai em con hy sinh tất cả…
Nhưng thằng út vẫn còn bên gối má –
Con ăn bát cơm này, thì nghĩa trả biết bao lâu…
Miền Nam! Miền Nam! Tôi đã thăm đâu!
Chỉ mới gọi là đi qua đỡ nhớ
Tôi muốn tặng được chút gì cho những mạ tôi chôn nớ
Một bài ca dao chăng, một miếng trầu chăng…
Trái tim tôi: một cái túi tràn trề
Hột lúa, hột mè, hột bông, hột cải.
Lòng tôi chứa, mà hồn tôi thì vãi
Gió bay hột cải rơi lại trong vườn…
Sang xuân hoa cải ở lại vàng tươi
Gió thổi chập chờn, bướm mơn không khí…
Ôi cái đất miền Nam, đất mềm, đất nhuỵ
Tôi thích làm cây cải bên sông Ba
Ở! Trên đôi cánh huy hoàng của con chim phượng hoàng Chiến thắng
Phải chi tôi bắt chước được Khuất Nguyên cưỡi phượng qua đèo
Dắt cầu vồng móng cụt cũng hay theo
Dặng nói nỗi hân hoan ngang tầm đất nước
Tôi muốn đi thăm mỗi làng, mỗi nhà
Mỗi hàng rào bông bụt của miền Nam ta,
Tôi muốn đến nghiêng đầu chào thương mỗi má
Cất tiếng đáp “muôn năm” mỗi tiếng gọi của sơn hà.
*
MIỀN NAM TRONG LÒNG XUÂN DIỆU – NỖI YÊU THƯƠNG KHÔN NGUÔI
Nếu thơ Xuân Diệu những năm trước Cách mạng thường vang lên với khát vọng yêu đời, tận hưởng thanh sắc trần gian, thì sau này, khi đất nước bước vào những cuộc đấu tranh khốc liệt, giọng thơ ấy lại hòa cùng nhịp đập của dân tộc, tha thiết, sâu nặng với quê hương, đồng bào. Tôi muốn đến thăm khắp cả miền Nam là một bài thơ như thế – một bản tình ca tràn đầy thương nhớ, yêu mến dành cho mảnh đất phương Nam, nơi mà tác giả đã từng cách trở suốt ba mươi năm dài đằng đẵng.
Nỗi niềm của một người con xa cách
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, Xuân Diệu đã thể hiện một nỗi khao khát không thể kìm nén:
“Tôi muốn đi thăm mỗi làng mỗi nhà
Mỗi hàng rào bông bụt của miền Nam ta
Tôi muốn đến nghiêng đầu chào thương mỗi má
Thăm mỗi sợi tóc sương trên trán mỗi mẹ già.”
Hình ảnh hàng rào bông bụt, mỗi má, mỗi mẹ già gợi lên một miền Nam bình dị, thân thương. Ở đó, không chỉ có cảnh sắc quê hương, mà còn có con người, có những người mẹ, người má đã từng trải qua biết bao tháng năm đau thương của chiến tranh.
Sự trở về của nhà thơ không chỉ là một chuyến đi thăm thú, mà là một cuộc hành hương của trái tim. Ba mươi năm xa cách, hai tháng rưỡi trở về chẳng thấm vào đâu so với khoảng thời gian ấy:
“Hai tháng rưỡi về thăm
Thấm vào đâu với ba mươi năm cách trở!
Chưa ôm hết tay thương, chưa chứa đầy mắt nhớ
Lòng tôi còn nguyên nợ với miền Nam”
Cái “nợ” ấy không phải là nghĩa vụ mà là món nợ của yêu thương, của những tháng năm mong nhớ, của sự gắn bó máu thịt với miền đất này.
Miền Nam – đau thương mà rạng rỡ
Miền Nam trong thơ Xuân Diệu không chỉ là một vùng đất đẹp đẽ, mà còn là một vùng đất kiên cường:
“Tôi đã thăm những làng xóm nhớ thương
Vàng mái rạ, cả cọng rơm cũng nở
Những thành phố khổ đau và rạng rỡ
Gạt bóng còn dang dở – mở bình minh!”
Hình ảnh “thành phố khổ đau và rạng rỡ” gợi lên một miền Nam đầy thử thách, nhưng cũng là một miền Nam quật cường, vững vàng trước gian khó. Chính trên mảnh đất này, bao thế hệ đã hy sinh để bảo vệ từng tấc đất, từng mái nhà, từng bến sông.
Không chỉ là những thị thành lớn, Xuân Diệu còn muốn đến từng bãi vắng, rừng xa, đến những nơi heo hút nhất để nhìn thấy cuộc sống của những con người miền Nam chân chất:
“Hoặc đến bến sông có bóng thầu đâu
Qua cái con đò cùng với đôi cô gánh vải;
Hoặc mấy nhà sàn trên buôn bên suối,
Tiếng nai còn dắng dỏi cuối rừng xa…”
Bằng những câu thơ giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, Xuân Diệu đã phác họa một miền Nam không chỉ đẹp về cảnh sắc mà còn đậm đà bản sắc văn hóa, từ bến sông, con đò đến những ngôi nhà sàn trên buôn làng.
Tình cảm thiêng liêng với những người mẹ Nam Bộ
Hình ảnh người mẹ Nam Bộ hiện lên thật xúc động, là biểu tượng cho sự hy sinh, cho tấm lòng rộng lớn của miền Nam:
“Và cuối vườn có một túp nhà con
Cái nhà hiền như nấm rơm, cái nhà thơm như quả chuối
Mái nhà thấp, tôi bước vào phải cúi
– Và má muôn đời Nam Bộ vẫn chờ tôi”
Câu thơ “mái nhà thấp, tôi bước vào phải cúi” vừa có nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Bước vào mái nhà của má, tác giả cúi đầu không chỉ vì mái nhà thấp, mà còn vì lòng kính trọng, vì sự biết ơn trước những hy sinh lặng thầm của những người mẹ Nam Bộ.
Đặc biệt, khoảnh khắc khi má cất lời gọi, nhà thơ chỉ biết lặng người đáp lại:
“Má ngước đầu lên má biểu: ‘- Thằng Hai!
Gặp bữa, con ngồi xuống đây ăn cơm với má’
Tôi đột ngột chỉ biết ngồi rồi khẽ: ‘Dạ’!
Trong tay tôi cơm nắm đã bao giờ…”
Chỉ một tiếng “Dạ” thôi mà dường như chứa đựng biết bao xúc cảm. Đó là nỗi nghẹn ngào, là sự trân trọng, là tình thương yêu thấm sâu vào từng hạt cơm, từng hơi ấm của mái nhà.
Tâm hồn Xuân Diệu gửi vào miền Nam
Không chỉ thể hiện tình yêu thương dành cho con người, Xuân Diệu còn mong muốn được hóa thân vào miền đất này, trở thành một phần của nó:
“Trái tim tôi: một cái túi tràn trề
Hột lúa, hột mè, hột bông, hột cải.
Lòng tôi chứa, mà hồn tôi thì vãi
Gió bay hột cải rơi lại trong vườn…”
Hình ảnh “hột cải rơi lại trong vườn” vừa mang ý nghĩa thực – thể hiện sự gắn bó của nhà thơ với miền Nam, vừa mang ý nghĩa biểu tượng – rằng thơ ông, tình yêu ông, tấm lòng ông sẽ mãi còn vương lại nơi đây, như những hạt giống gieo xuống, để rồi nảy mầm, lớn lên, nở hoa vàng tươi trong mùa xuân.
Và trong ước vọng lớn lao ấy, nhà thơ khao khát được cưỡi lên cánh chim phượng hoàng Chiến thắng, bay ngang miền Nam để dâng lên niềm hân hoan tột cùng:
“Phải chi tôi bắt chước được Khuất Nguyên cưỡi phượng qua đèo
Dắt cầu vồng móng cụt cũng hay theo
Dặng nói nỗi hân hoan ngang tầm đất nước”
Lời kết
Tôi muốn đến thăm khắp cả miền Nam không chỉ là một bài thơ ca ngợi cảnh sắc và con người phương Nam, mà còn là một khúc hát chan chứa tình yêu, lòng kính trọng và nỗi khắc khoải của Xuân Diệu. Bài thơ vừa là một chuyến trở về, vừa là một lời hứa hẹn – rằng nhà thơ sẽ mãi mãi yêu miền Nam, sẽ mãi mãi gửi hồn mình vào từng hàng rào bông bụt, từng mái nhà tranh, từng tiếng gọi “má ơi” da diết.
Có lẽ, mỗi người khi đọc bài thơ này cũng sẽ cảm nhận được một phần nào đó trong trái tim mình – tình yêu với quê hương, với những miền đất đã từng nuôi dưỡng ta bằng tình thương, bằng nỗi nhớ, bằng từng bát cơm chan chứa nghĩa tình.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý