Trầm lặng
Xuân về, ta chán thế này ru?
Non nước dây dưa mối hận thù!
Tài đức huênh hoang phường tục tử,
Vinh ba nhảy nhót bọn phàm phu.
Hương tàn, khói lạnh, mồ hoang vắng,
Bướm rã, hoa ôi, gió mịt mù…!
Bão lụt, đao binh, tràn thảm hoạ,
Hai cô hàng xóm bỏ đi tu…!
1954
*
Trầm Lặng Giữa Cơn Bão Đời
Một Mùa Xuân U Ám
Mùa xuân thường gợi lên những hình ảnh tươi đẹp, là thời khắc khởi đầu của sự sống, của hy vọng và niềm vui. Nhưng trong Trầm lặng của Nguyễn Vỹ, mùa xuân lại mang một sắc thái hoàn toàn khác – một mùa xuân của chán chường, của đau thương, của những nỗi niềm bế tắc giữa thời cuộc rối ren.
Xuân về, ta chán thế này ru?
Non nước dây dưa mối hận thù!
Lẽ ra, mùa xuân phải là sự hồi sinh, là niềm vui tràn ngập, nhưng ở đây, tác giả lại mở đầu bằng một câu hỏi đầy nặng nề: Xuân về, ta chán thế này ru? Câu thơ vừa như một lời than vãn, vừa như một tiếng thở dài buông lửng. Mùa xuân có về, nhưng lòng người vẫn u uất, vì đâu? Vì non nước dây dưa mối hận thù! – đất nước vẫn còn đó những nỗi đau, những vết thương chưa khép miệng.
Những Kẻ Tầm Thường Và Xã Hội Đảo Điên
Nỗi chán chường của tác giả không chỉ đến từ thời cuộc loạn lạc, mà còn từ sự đảo lộn trong xã hội.
Tài đức huênh hoang phường tục tử,
Vinh ba nhảy nhót bọn phàm phu.
Những kẻ “tục tử” – vốn không có tài năng hay đạo đức – lại huênh hoang tự đắc. Những kẻ “phàm phu” – vốn tầm thường, nhỏ nhen – lại được vinh danh, tung hô. Xã hội trở nên hỗn loạn, thật giả đảo điên, kẻ đáng được trọng dụng thì bị bỏ quên, còn những kẻ chỉ biết xu nịnh lại có cơ hội thăng hoa.
Đọc đến đây, ta có thể cảm nhận được tâm trạng đau đớn của tác giả. Ông không chỉ than trách thời cuộc, mà còn bộc lộ nỗi thất vọng lớn lao về con người, về xã hội.
Thiên Nhiên Cũng Mang Một Nỗi Buồn
Nỗi u uất ấy không chỉ nằm trong lòng người mà còn lan ra cả cảnh vật:
Hương tàn, khói lạnh, mồ hoang vắng,
Bướm rã, hoa ôi, gió mịt mù…!
Tất cả những gì đẹp đẽ nhất của mùa xuân – hương hoa, khói trầm, bướm bay – đều trở nên hoang vắng, tàn úa. Hình ảnh “mồ hoang vắng” gợi lên sự chết chóc, tang thương. Thiên nhiên như cũng đang hấp hối, đang héo úa theo thời cuộc. Gió vốn là biểu tượng của tự do, của sinh khí, thì nay cũng trở nên mịt mù – không còn phương hướng, không còn sức sống.
Có lẽ, chưa bao giờ mùa xuân trong thơ lại u ám đến thế. Đây không còn là mùa của niềm vui, mà là mùa của nỗi đau và tuyệt vọng.
Khi Con Người Cũng Muốn Tránh Xa Thế Gian
Hai câu kết của bài thơ là một hình ảnh đầy xót xa:
Bão lụt, đao binh, tràn thảm hoạ,
Hai cô hàng xóm bỏ đi tu…!
Xã hội loạn lạc, chiến tranh, thiên tai ập đến không ngừng. Giữa cảnh đời bế tắc ấy, con người chỉ còn một con đường – rời bỏ thế gian, tìm đến chốn thiền môn. Hình ảnh hai cô hàng xóm bỏ đi tu không chỉ là một sự kiện cá nhân, mà còn là biểu tượng cho tâm trạng của những con người không còn niềm tin vào cuộc sống. Khi hiện thực quá đớn đau, người ta buộc phải tìm đến một thế giới khác – dù thế giới ấy có là ảo ảnh hay không.
Nỗi Buồn Không Của Riêng Ai
Bài thơ Trầm lặng không chỉ phản ánh tâm trạng của riêng Nguyễn Vỹ mà còn là nỗi lòng chung của cả một thế hệ. Trong thời điểm năm 1954, khi đất nước còn chia cắt, chiến tranh vẫn chưa chấm dứt, thì những câu thơ này càng trở nên thấm thía. Đó không chỉ là nỗi đau của một cá nhân, mà là nỗi đau của cả dân tộc, của những con người đã quá mỏi mệt với chiến tranh, với thù hận, với sự đảo điên của thế sự.
Lời Kết – Trầm Lặng Nhưng Không Cam Chịu
Dù bài thơ tràn ngập nỗi buồn và sự chán chường, nhưng trong đó vẫn ẩn chứa một điều gì đó lớn hơn: sự thức tỉnh. Nguyễn Vỹ không viết những dòng thơ này để than thân trách phận, mà để đặt ra một câu hỏi: Tại sao mùa xuân về mà ta vẫn chán chường? Tại sao chúng ta phải sống trong một thời cuộc như thế này?
Có lẽ, giữa những câu thơ tưởng như chỉ là lời than thở, ta vẫn cảm nhận được một khao khát – khao khát về một mùa xuân đúng nghĩa, một mùa xuân không còn hận thù, không còn chiến tranh, không còn những con người tầm thường nắm giữ vận mệnh của kẻ sĩ chân chính.
Trầm lặng – nhưng không cam chịu. Đó chính là tinh thần của bài thơ.
*
Nguyễn Vỹ – Nhà thơ, nhà báo kiên định với lý tưởng
Nguyễn Vỹ (1912 – 1971) là một nhà thơ, nhà báo nổi bật trong nền văn học Việt Nam thời tiền chiến. Ông không chỉ được biết đến qua hai bài thơ gây tiếng vang: Gởi Trương Tửu và Sương rơi, mà còn ghi dấu ấn với nhiều tác phẩm đa dạng từ thơ ca, tiểu thuyết đến biên khảo.
Sinh tại Quảng Ngãi, Nguyễn Vỹ sớm bộc lộ tư tưởng yêu nước, từng nhiều lần bị bắt giam vì các hoạt động chống thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ông cũng là người sáng lập nhiều tờ báo như Việt – Pháp, Tổ quốc, Dân chủ, Dân ta, trong đó tạp chí Phổ Thông được đánh giá cao về văn học và nghệ thuật.
Thơ Nguyễn Vỹ mang phong cách riêng biệt, thể nghiệm nhiều lối viết mới. Dù từng bị phê phán, nhưng ông vẫn kiên trì theo đuổi con đường sáng tạo, để lại dấu ấn với những tác phẩm thể hiện nỗi trăn trở về xã hội và vận mệnh con người.
Ông qua đời năm 1971 do tai nạn giao thông, khép lại cuộc đời một người cầm bút nhiệt huyết, dấn thân không ngừng vì văn chương và tư tưởng.
Viên Ngọc Quý.