Trận đấu mới mẻ
Tặng liệt sĩ Nguyễn thị Du liệt sĩ công an khu Ngô Quyền, Hải Phòng
– “Máy bay địch đến rồi, bà con đâu ở đấy”
Giữa tiếng bom hát ngã trước hầm
Cô gái có kêu cho mọi người nghe thấy
Có giữ vẹn toàn tính mệnh nhân dân.
– “Khoan hãy cứu tôi, hầm bên còn người sống”
Lời cuối cùng cô nói như van.
Bạn bè chia đôi, một nửa xông vào lửa bỏng
Một nửa đưa cô đến chỗ an toàn.
Nhưng cô gái đã hy sinh lặng lẽ
Biết mọi người được cứu thoát đạn bom
Biết căn hầm mở dưới bàn tay bảo vệ
Nơi cô nhường cuộc sống cho bà con.
Nhân dân khóc cô, người công an tuổi trẻ.
Mới vào đời, tươi sáng ánh ban mai.
Hai mốt mùa xuân, vào trận đầu mới mẻ
Cô đã vào sâu tận trái tim người.
Hải Phòng, 24-4-1972
*
Người Con Gái Giữa Trận Đấu Mới Mẻ
Có những con người, dù chỉ sống hai mốt mùa xuân ngắn ngủi, nhưng dấu ấn họ để lại lại bền lâu hơn cả thời gian. Liệt sĩ Nguyễn Thị Du – cô gái công an trẻ tuổi của khu Ngô Quyền, Hải Phòng – đã đi vào lòng người như một bản anh hùng ca lặng lẽ mà thấm đẫm tình yêu thương.
Bài thơ Trận đấu mới mẻ của nhà thơ Anh Thơ không chỉ khắc họa một khoảnh khắc bi tráng giữa chiến tranh, mà còn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn cao cả của một người con gái đã chọn hi sinh vì nhân dân. Cô gái ấy ra đi, nhưng tấm lòng và tinh thần của cô mãi còn trong trái tim bao thế hệ.
Tiếng gọi cuối cùng – Lời nguyện ước vì nhân dân
Giữa tiếng bom dội xuống, giữa những giây phút sinh tử, cô gái công an trẻ vẫn giữ vững tinh thần trách nhiệm của mình:
“Máy bay địch đến rồi, bà con đâu ở đấy”
Giữa tiếng bom hát ngã trước hầm
Cô gái có kêu cho mọi người nghe thấy
Có giữ vẹn toàn tính mệnh nhân dân.”
Không hề có sự hoảng loạn hay run sợ. Trong lúc hiểm nguy cận kề, điều đầu tiên cô nghĩ đến không phải bản thân, mà là nhân dân, là sự an toàn của những người xung quanh. Tiếng gọi của cô không chỉ là lời cảnh báo, mà còn là lời nhắc nhở về lòng dũng cảm và trách nhiệm của người chiến sĩ giữa thời chiến.
Và rồi, khi chính bản thân rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm, cô vẫn không hề đặt mình lên trên người khác:
“Khoan hãy cứu tôi, hầm bên còn người sống”
Lời cuối cùng cô nói như van.”
Lời nói nhẹ nhàng nhưng chất chứa cả một tinh thần lớn lao. Cô không van xin cho mình, mà cầu mong sự sống cho những người khác. Cái chết đến với cô trong lặng lẽ, nhưng sự ra đi ấy lại là ánh sáng soi tỏ tinh thần bất diệt của những con người chiến đấu vì lý tưởng.
Sự hi sinh lặng thầm mà bất tử
Cô gái đã nằm xuống, nhưng trong phút giây cuối cùng, cô vẫn biết rằng:
“Biết mọi người được cứu thoát đạn bom
Biết căn hầm mở dưới bàn tay bảo vệ
Nơi cô nhường cuộc sống cho bà con.”
Đọc đến đây, không ai có thể cầm lòng trước sự hi sinh quá đỗi cao cả. Giữa sự lựa chọn sống – chết, cô đã chọn nhường sự sống cho những người khác, chọn giữ trọn trách nhiệm của mình đến phút cuối cùng. Đó không chỉ là tinh thần của người chiến sĩ công an, mà còn là tấm lòng bao la của một người con đất Việt, sẵn sàng đặt lợi ích của nhân dân lên trên sinh mạng mình.
Và rồi, nhân dân khóc thương cô – không chỉ vì mất đi một người con gái trẻ tuổi, mà vì họ đã chứng kiến một tấm lòng vĩ đại:
“Nhân dân khóc cô, người công an tuổi trẻ
Mới vào đời, tươi sáng ánh ban mai.”
Hai mốt tuổi – lứa tuổi của những ước mơ, của những hoài bão về tương lai. Nhưng cô gái ấy đã dành trọn tuổi xuân của mình cho một lý tưởng lớn lao hơn cả.
Cô đã đi vào lòng người
Cái chết không thể xóa nhòa đi hình ảnh của cô. Ngược lại, nó làm sáng lên tinh thần của một thế hệ thanh niên dám hi sinh vì đất nước, vì nhân dân:
“Hai mốt mùa xuân, vào trận đầu mới mẻ
Cô đã vào sâu tận trái tim người.”
Cô gái trẻ tuổi ấy đã trở thành một biểu tượng bất diệt. Cô ra đi, nhưng trái tim của cô đã hòa vào hàng triệu trái tim khác, tiếp thêm sức mạnh cho những người ở lại.
Thông điệp của bài thơ
Bài thơ Trận đấu mới mẻ không chỉ là một lời tưởng nhớ dành cho liệt sĩ Nguyễn Thị Du, mà còn là lời ca ngợi tinh thần quật cường của thế hệ trẻ Việt Nam trong chiến tranh.
Cô gái ấy đã ra đi trong thầm lặng, nhưng sự hi sinh của cô lại vang vọng mãi trong lòng người. Ở tuổi hai mốt, lứa tuổi đẹp nhất của đời người, cô không chọn sống cho riêng mình, mà chọn sống vì người khác. Và chính sự hi sinh ấy đã làm nên sự bất tử.
Đọc bài thơ, ta không chỉ xúc động trước hình ảnh người con gái nhỏ bé mà vĩ đại, mà còn cảm nhận được sức mạnh vô song của tình yêu đất nước, của tinh thần hi sinh vì nhân dân.
Cô đã đi, nhưng cô không mất. Bởi tên cô đã khắc sâu vào lịch sử, vào trái tim của những người ở lại.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.