Cảm nhận bài thơ: Tráng ca – Thâm Tâm

Tráng ca

Sinh ta, cha ném bút rồi,
Rừng nho tàn rụng cho đời sang xuân.
Nuôi ta, mẹ héo từng năm,
Vắt bầu sữa cạn, tê chân máu gầy.
Dạy ta, ba bảy ông thầy,
Gươm dài sách rộng, biển đầy núi vơi.
Nhà ta cầm đợ tay người,
Kép bông đâu áo, ngọt bùi đâu cơm?
Chong gai đổi dại làm khôn,
Ba vòng, mòng sếu lượn vòng lại bay…
Bông hoa chu giáp vần xoay,
Cánh vàng non nửa đài gầy tả tơi.
Chữ nhân sáng rực sao trời,
Đường xe mở rộng chân người bước xa…
Bọn ta một lớp lìa nhà,
Cháo hàng cơ chợ, ngồi ca lúa đồng,
Hây hây tóc óng từng vòng,
Gió nào là gió chẳng mong thổi lùa!
Trường đình phá bỏ từ xưa,
Đất này sạch khí tiễn đưa cay sè.
Mốn phương tản mác bạn bè,
Nhớ nhau hẹn quả mùa hè gặp nhau.
…Rầm trời chớp giật mưa mau,
Lửa đèn chấp chới, khói tầu mù u,
Bốn phương đây bạn đó thù,
Hiệu còi xoáy động bản đồ năm châu.
– A, cơn thảo muội bắt đầu,
Tuổi xanh theo gió ngâm câu dặm dài:
Thét roi lượng sức ngựa tài,
Coi trong cuộc rối tìm người chờ mong…
Trai lận đận, gái long đong,
Chờ mong khắc khoải nản lòng dăm ba;
Nẻo về gốc mẹ cỗi cha,
Thuyền ai nặng chở món quà đắng cay!
Từng nơi sống áo trùng tay,
Gió thu thổi bạc một ngày lòng son;
Từng nơi cơm trấu, áo rơm,
Mưa xuân nhuốm tái mấy cơn mặt vàng.
Vượn kêu ruột buốt trên ngàn…
Nhưng thôi! Sao việc dã tràng lầm theo?
Nện cho vang tiếng chuông chiều,
Thù đem sức sớm đánh kêu trống đình;
Thở phù hơi rượu đua tranh,
Quăng tay chén khói tan thành trời mưa.
Dặm dài bến đón bờ đưa,
Thuyền ai buồm lái giúp vùa vào nhau,
Kia kìa lũ trước dòng sau,
Trăm sông rồi cũng chung đầu đại dương.

*

“TRÁNG CA” – LỜI HÁT CỦA NHỮNG NGƯỜI RA ĐI

Khi nhắc đến Thâm Tâm, người ta thường nhớ đến Tống biệt hành với nỗi buồn ly khách, nhưng ít ai biết rằng ông còn có một Tráng ca đầy hào sảng – một khúc ca của những con người bước ra từ đau thương, mang theo ý chí của thời đại để dấn thân vào cõi lớn.

Tráng ca không chỉ là bài thơ của một cá nhân, mà còn là tiếng nói của cả một thế hệ. Ở đó có những chàng trai trẻ lớn lên trong nghèo khó, dày vò giữa những mất mát của quê hương, nhưng vẫn mang trong tim khát vọng vươn xa, quyết không để số phận trói buộc mình.

Tuổi thơ của một thế hệ lầm than

“Sinh ta, cha ném bút rồi,
Rừng nho tàn rụng cho đời sang xuân.
Nuôi ta, mẹ héo từng năm,
Vắt bầu sữa cạn, tê chân máu gầy.”

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh cha mẹ – những người đã dốc cạn tình yêu và sức lực để nuôi con trong cảnh đời lận đận. “Cha ném bút rồi” – một câu thơ đầy ám ảnh. Có thể hiểu rằng cha từng là một người có học, nhưng vì thời cuộc mà buộc phải từ bỏ con đường tri thức. Mẹ thì hao mòn theo năm tháng, vắt kiệt sức lực vì con cái.

Những câu thơ gợi nhớ đến hình ảnh của cả một thế hệ cha anh đã khuất, những người phải buông bỏ lý tưởng để vật lộn với cơm áo gạo tiền, để lại sau lưng một thế hệ con cháu bước đi trên con đường đầy giông bão.

Những chàng trai lớn lên trong đói nghèo, nhưng không khuất phục

“Nhà ta cầm đợ tay người,
Kép bông đâu áo, ngọt bùi đâu cơm?”

Từng câu thơ như một tiếng than về sự khốn khó. Gia đình lầm than, phải đi vay nợ kẻ khác, áo quần rách rưới, cơm không đủ ăn. Những chàng trai của thế hệ ấy không được sinh ra trong nhung lụa, mà lớn lên giữa gian truân. Nhưng chính từ trong nghèo khổ, họ học được cách đứng dậy.

“Chong gai đổi dại làm khôn,
Ba vòng, mòng sếu lượn vòng lại bay…”

Họ học từ cuộc đời, học trong gian nan, học bằng những bài học không có trong sách vở. Những cánh chim “mòng sếu” bay mãi trên trời cao, giống như những con người không chịu khuất phục trước nghịch cảnh, vẫn luôn tìm kiếm con đường cho riêng mình.

Tạm biệt quê nhà, mang chí lớn ra đi

“Bọn ta một lớp lìa nhà,
Cháo hàng cơ chợ, ngồi ca lúa đồng.”

Họ ra đi, rời bỏ quê hương, không phải để trốn chạy, mà để tìm con đường mới. Họ đã quen với cảnh ăn bữa cơm chợ, quen với những ngày lang bạt giữa đồng quê. Họ không còn trói mình vào những thứ bình yên nhỏ bé nữa, mà sẵn sàng hòa vào cơn sóng lớn của thời đại.

“Hây hây tóc óng từng vòng,
Gió nào là gió chẳng mong thổi lùa!”

Đây là một câu thơ tràn đầy khí khái. Những con người trẻ tuổi ấy giống như những ngọn cỏ xanh, sẵn sàng đón gió, sẵn sàng hòa mình vào bão tố. Họ không sợ thử thách, mà còn mong chờ được thử thách.

Cuộc đời là một hành trình đầy sóng gió

“Rầm trời chớp giật mưa mau,
Lửa đèn chấp chới, khói tàu mù u,
Bốn phương đây bạn đó thù,
Hiệu còi xoáy động bản đồ năm châu.”

Xã hội bên ngoài không bình yên. Đó là một thế giới của những cơn bão lớn, của những cuộc chiến, của những kẻ thù luôn rình rập. Nhưng cũng chính ở nơi đó, có những người bạn đồng hành, có những lý tưởng lớn lao chờ họ bước tới.

“A, cơn thảo muội bắt đầu,
Tuổi xanh theo gió ngâm câu dặm dài!”

Những chàng trai trẻ giờ đây đã trở thành những kẻ hành động. Họ không còn là những đứa trẻ ngày xưa nữa, mà là những con người dám thét vang, dám bước đi, dám lao vào cơn sóng lớn của cuộc đời.

Chờ mong ngày trở về, nhưng không biết khi nào

“Nẻo về gốc mẹ cỗi cha,
Thuyền ai nặng chở món quà đắng cay!”

Có một nỗi buồn thấp thoáng trong những câu thơ này. Dù ra đi với khí thế hào hùng, nhưng trong thẳm sâu, họ vẫn đau đáu nghĩ về quê nhà, về cha mẹ già. Họ biết rằng có thể một ngày nào đó sẽ trở về, nhưng không biết sẽ mang theo niềm vui hay những “món quà đắng cay” của số phận.

Những tháng năm lang bạt sẽ mài mòn tuổi trẻ, khiến mái tóc xanh hóa bạc, khiến những kẻ ra đi trở thành những con người đầy sương gió.

“Từng nơi sống áo trùng tay,
Gió thu thổi bạc một ngày lòng son;”

Dù vậy, dù có trải qua bao nhiêu biến cố, họ vẫn giữ trong tim một ngọn lửa. “Lòng son” vẫn còn đó, vẫn cháy lên, dù cho cuộc đời có bao nhiêu gió sương.

Cuộc đời là những dòng sông nhỏ, chảy về biển lớn

“Dặm dài bến đón bờ đưa,
Thuyền ai buồm lái giúp vừa vào nhau,
Kia kìa lũ trước dòng sau,
Trăm sông rồi cũng chung đầu đại dương.”

Đây là hình ảnh kết thúc đầy ý nghĩa. Mỗi con người là một dòng sông nhỏ, mỗi cuộc đời là một hành trình. Dù có đi qua bao nhiêu khúc quanh, bao nhiêu ghềnh thác, tất cả rồi cũng sẽ chảy về biển lớn.

Có lẽ đó chính là thông điệp của bài thơ: mỗi con người đều có một hành trình riêng, một lý tưởng riêng, nhưng cuối cùng, tất cả đều hướng về một đích đến chung.

Lời kết – Bản tráng ca của những người bước đi

Tráng ca của Thâm Tâm không chỉ là bài thơ về những con người ra đi, mà còn là bài thơ của cả một thế hệ. Đó là thế hệ lớn lên trong gian khó, bước đi giữa những bão tố của thời cuộc, nhưng không hề lùi bước.

Dù phía trước là bao nhiêu thử thách, dù có phải dầm mình trong những cơn mưa bão, họ vẫn đi, vẫn hát lên bản tráng ca của đời mình. Bởi vì, như chính Thâm Tâm đã viết:

“Trăm sông rồi cũng chung đầu đại dương.”

*

Thâm Tâm – Nhà Thơ Của Hào Khí Và Ly Biệt

Thâm Tâm (1917–1950), tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, là một nhà thơ và nhà viết kịch tiêu biểu của Việt Nam. Ông được biết đến nhiều nhất qua bài thơ Tống biệt hành, tác phẩm mang phong cách hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại, thể hiện hào khí mạnh mẽ và nỗi bi tráng trong từng câu chữ.

Sinh ra tại Hải Dương trong một gia đình nhà giáo, Thâm Tâm từ nhỏ đã sớm bộc lộ tài năng nghệ thuật. Ông từng kiếm sống bằng nghề vẽ tranh trước khi bước vào con đường văn chương. Những năm 1940, ông hoạt động sôi nổi trên các tờ báo như Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, và đặc biệt thành công với thể loại thơ. Thơ ông đa dạng về cảm xúc, lúc buồn sâu lắng, lúc trầm hùng, bi ai, lúc lại rộn ràng niềm vui.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thâm Tâm tích cực tham gia phong trào văn hóa Cứu quốc, làm biên tập viên báo Tiên Phong rồi nhập ngũ, trở thành thư ký tòa soạn báo Vệ quốc quân (sau này là Quân đội Nhân dân). Ông qua đời đột ngột vào năm 1950 trong một chuyến công tác tại chiến dịch Biên giới, để lại nhiều tiếc thương.

Sinh thời, Thâm Tâm chưa in tập thơ nào, nhưng những sáng tác của ông được tập hợp và xuất bản vào năm 1988 trong tuyển tập Thơ Thâm Tâm. Ngoài Tống biệt hành, ông còn nổi tiếng với các bài thơ Gửi T.T.Kh., Màu máu Tygôn, Dang dở, gắn liền với câu chuyện tình bí ẩn về thi sĩ T.T.Kh.

Bên cạnh thơ, Thâm Tâm còn sáng tác nhiều kịch bản như Sương tháng Tám, Lá cờ máu, Người thợ… Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, khẳng định những đóng góp quan trọng của ông đối với nền văn học Việt Nam.

Với phong cách thơ vừa lãng mạn vừa bi tráng, giàu cảm xúc nhưng cũng đầy hào khí, Thâm Tâm mãi mãi là một trong những gương mặt tiêu biểu của thi ca Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *