Cảm nhận bài thơ: Trăng, chó, tù… – Nguyễn Vỹ

Trăng, chó, tù…

 

Ngục Trà Khê, đoàn tù nằm trong tối.
Chỗ giường tôi đối diện với Trăng thu,
Nhưng kẽm gai giăng lưới bọc âm u,
Ngoài sáng tỏ, trong mịt mù bưng bít.
Ai nấy ngủ, hai giẫy sàn kê khít,
Cửa nhà lao dây xích khoá ba vòng,
Một tia vàng lóng lánh lọt qua song,
Nằm âu yếm bên lòng tôi, khẽ bảo:
“Đêm nay rằm, em giăng tơ huyền ảo,
Ngồi dậy xem chàng hỡi, giữa khuông xanh,
Em dệt thơ, dệt mộng, kết muôn vần,
Để em tặng người-em-yêu muôn thuở.
Ngồi dậy đi, hỡi chàng, nhìn song cửa,
Ngoài trời mây rực rỡ ánh trăng lành!
Em về đây trọn hết cả năm canh,
Đem tất cả dâng chàng lòng trinh bạch.”
Trăng mủm mỉm cười duyên, rồi khẽ lách
Lưới kẽm gai ngăn cách giữa tôi nàng…
Tôi giơ tay, muốn níu ánh trăng vàng,
Lòng xao xuyến, tôi vội ngồi nhổm dậy.
Sau lưới sắt tôi nhìn trăng mê mải,
Núi rừng hoang Trăng giải áng sầu bi…
Trước sân tù có con chó L’Amie,
(Con chó trắng dễ thương và ngoan ngoãn,
Chó độc nhất, và trung thành như bạn,
Lạc ngoài rừng, chúng tôi bắt về nuôi.)
Giỡn với Trăng, chó phe phẩy mừng vui.
Chó nhảy tới, nhảy lui, đùa với bóng…
Trăng tha thướt, yêu kiều trong ảo mộng,
Rải trên sân lồng lộng ánh huyền mơ.
Mỗi nét Trăng là dệt một vần Thơ,

           *

Mỗi sóng trắng là một đường tơ thắm,
Chó đùa bỡn, chạy quanh, rồi đứng ngắm,
Mắt nhìn Trăng, lóng lánh ánh Trăng ngà…
Tôi thằng tù như một mảnh hồn ma,
Trong ngục thẳm nhìn qua song lưới sắt,
Nhìn mê mải, thèm thuồng, không mỏi mắt,
Nhìn khao khát, ngây ngất, ánh Trăng say,
Muôn phá tung cửa ngục chạy ra ngoài,
Để ngắm nó, để ngất ngây say với nó,
Để đùa bỡn với bóng Trăng bóng chó,
Để dệt tình, dệt mộng với Trăng tơ…
Nhưng bỗng dưng đôi mắt lệ hoen mờ,
Tôi ngục xuống sàn tre, nằm thổn thức…
Trăng với chó tự do ngoài sân ngục,
Tôi bị giam sau bốn bức tường cao!
Ôi tự do! mi quý biết nhường bao!
Mi là cả Trăng, Sao, Trời, Thơ, Mộng!
Mi là những nụ cười vui để sống!
Mi là dòng huyết thống của Thiêng-liêng!
Có Tự do là có cả Thần Tiên,
Không có nó, trần duyên là ngục thẳm!

Tù Trà Khê say mê trong giấc đắm,
Trên giường tù ai lệ đẵm trong đêm!…


1944

*

Ánh Trăng, Chú Chó Và Nỗi Khát Khao Tự Do

Trăng Ngoài Song Sắt – Giấc Mộng Không Với Tới

Bài thơ Trăng, chó, tù… của Nguyễn Vỹ được viết trong hoàn cảnh đặc biệt: khi tác giả bị giam cầm tại nhà tù Trà Khê. Giữa bốn bức tường lạnh lẽo, giữa dây kẽm gai và bóng tối, ánh trăng ngoài song cửa trở thành biểu tượng của tự do, của những giấc mộng đẹp mà người tù chỉ có thể nhìn thấy, nhưng không thể chạm vào.

Ngục Trà Khê, đoàn tù nằm trong tối.
Chỗ giường tôi đối diện với Trăng thu,
Nhưng kẽm gai giăng lưới bọc âm u,
Ngoài sáng tỏ, trong mịt mù bưng bít.

Trăng sáng, trời cao, nhưng người tù thì bị giam cầm, bị trói buộc bởi dây kẽm gai và bốn bức tường kiên cố. Tự do ở ngay trước mắt, rạng rỡ, lộng lẫy, nhưng lại xa vời vợi. Đó là nghịch lý đau đớn nhất mà Nguyễn Vỹ đã khắc họa qua từng câu thơ.

Cuộc Đối Thoại Hư Ảo Giữa Người Tù Và Ánh Trăng

Ánh trăng trong thơ Nguyễn Vỹ không chỉ là một hiện tượng thiên nhiên, mà còn mang một linh hồn, một tiếng gọi dịu dàng nhưng mãnh liệt. Nó như một người tri kỷ, một người tình thủy chung, luôn ở đó, luôn vẹn nguyên trong sáng:

Một tia vàng lóng lánh lọt qua song,
Nằm âu yếm bên lòng tôi, khẽ bảo:

Trăng không xa cách mà rất gần gũi, như đang thủ thỉ, đang mời gọi người tù hãy ngắm nhìn nó, hãy tận hưởng vẻ đẹp vĩnh cửu của nó. Nhưng dù khao khát đến đâu, dù có muốn đưa tay chạm vào ánh trăng, người tù vẫn bị dây kẽm gai và song sắt ngăn cách. Sự trớ trêu ấy chính là hình ảnh ẩn dụ cho số phận của con người bị tước đoạt quyền tự do.

Chú Chó Nhỏ – Tự Do Giữa Sân Tù

Nếu như người tù chỉ có thể ngắm trăng trong khát vọng thì ngoài sân, có một sinh vật nhỏ bé lại được tự do đùa vui cùng ánh sáng ấy. Đó là chú chó L’Amie – một biểu tượng giản dị nhưng đầy sức gợi:

(Con chó trắng dễ thương và ngoan ngoãn,
Chó độc nhất, và trung thành như bạn,
Lạc ngoài rừng, chúng tôi bắt về nuôi.)

Chú chó không bị dây kẽm gai trói buộc, không bị song sắt cầm tù. Nó có thể chạy nhảy, có thể vui đùa với ánh trăng, có thể tận hưởng sự sống một cách vô tư. Chỉ riêng điều ấy thôi cũng đủ làm lòng người tù dâng lên nỗi chua xót.

Tôi thằng tù như một mảnh hồn ma,
Trong ngục thẳm nhìn qua song lưới sắt,
Nhìn mê mải, thèm thuồng, không mỏi mắt,
Nhìn khao khát, ngây ngất, ánh Trăng say…

Tự do đơn giản chỉ là được chạy nhảy trên nền đất, được ngẩng đầu nhìn trời, được hít thở không khí trong lành… Nhưng với người tù, điều tưởng như bình thường ấy lại trở thành một khát vọng mãnh liệt đến đau đớn.

Tự Do – Thứ Đáng Giá Nhất Trên Đời

Bài thơ không chỉ là một bức tranh đẹp mà buồn về trăng và người tù, mà còn là một lời kêu gọi, một tiếng thét lên giữa đêm đen về giá trị thiêng liêng của tự do:

Ôi tự do! mi quý biết nhường bao!
Mi là cả Trăng, Sao, Trời, Thơ, Mộng!
Mi là những nụ cười vui để sống!
Mi là dòng huyết thống của Thiêng-liêng!

Tự do không chỉ là một quyền lợi, mà còn là hơi thở, là máu thịt, là ý nghĩa của cuộc sống. Mất tự do, con người chỉ còn là cái bóng vật vờ giữa cuộc đời. Nguyễn Vỹ đã đặt tự do ngang hàng với “Trăng, Sao, Trời, Thơ, Mộng” – những thứ đẹp đẽ và vĩnh cửu nhất. Điều đó đủ để thấy, với ông, tự do là tất cả.

Lời Kết – Ánh Trăng Còn Đó, Nhưng Người Tù Vẫn Khát Khao

Bài thơ khép lại trong hình ảnh đầy ám ảnh:

Tù Trà Khê say mê trong giấc đắm,
Trên giường tù ai lệ đẵm trong đêm!

Ánh trăng vẫn chiếu rọi, chú chó vẫn tự do chạy nhảy, nhưng con người thì vẫn bị cầm tù, vẫn phải nuốt nước mắt vào trong. Trăng, chó, tù… không chỉ là một bức tranh đối lập giữa tự do và giam cầm, mà còn là lời nhắc nhở về giá trị của tự do – thứ mà con người chỉ thực sự hiểu khi nó đã bị tước đoạt.

Hôm nay, khi đọc lại bài thơ, ta không chỉ cảm nhận được nỗi niềm của một người tù khát khao ánh sáng, mà còn thấy vang vọng trong đó tiếng gọi muôn đời: hãy trân trọng và gìn giữ tự do, bởi không có tự do, con người chỉ là kẻ lạc loài giữa cuộc sống này.

*

Nguyễn Vỹ – Nhà thơ, nhà báo kiên định với lý tưởng

Nguyễn Vỹ (1912 – 1971) là một nhà thơ, nhà báo nổi bật trong nền văn học Việt Nam thời tiền chiến. Ông không chỉ được biết đến qua hai bài thơ gây tiếng vang: Gởi Trương TửuSương rơi, mà còn ghi dấu ấn với nhiều tác phẩm đa dạng từ thơ ca, tiểu thuyết đến biên khảo.

Sinh tại Quảng Ngãi, Nguyễn Vỹ sớm bộc lộ tư tưởng yêu nước, từng nhiều lần bị bắt giam vì các hoạt động chống thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ông cũng là người sáng lập nhiều tờ báo như Việt – Pháp, Tổ quốc, Dân chủ, Dân ta, trong đó tạp chí Phổ Thông được đánh giá cao về văn học và nghệ thuật.

Thơ Nguyễn Vỹ mang phong cách riêng biệt, thể nghiệm nhiều lối viết mới. Dù từng bị phê phán, nhưng ông vẫn kiên trì theo đuổi con đường sáng tạo, để lại dấu ấn với những tác phẩm thể hiện nỗi trăn trở về xã hội và vận mệnh con người.

Ông qua đời năm 1971 do tai nạn giao thông, khép lại cuộc đời một người cầm bút nhiệt huyết, dấn thân không ngừng vì văn chương và tư tưởng.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *