Cảm nhận bài thơ: Trăng mơ – Thúc Tề

Trăng mơ

 

Một đêm mờ lạnh ánh gương phai,
Suốt giải sông Hương nước thở dài.
Xào xạc sóng buồn khua bãi sậy,
Bập bềnh bên mạn chiếc thuyền ai.

Mây xám xây thành trên núi Bắc,
Nhạc mềm chới với giữa sương êm.
Trăng mờ mơ ngủ lim dim gật,
Ẻo lả nằm trên ngọn trúc mềm.

Dịp cầu Bạch Hổ mấy bóng ma
Biến mất vì nghe giục tiếng gà
Trăng tỉnh giấc mơ, lười biếng dậy,
Động lòng lệ liễu, giọt sương sa.

Lai láng niềm trăng tuôn dạ nước
Ngập tràn sông trắng gợn bâng khuâng;
Hương trăng quấn quýt hơi sương ướt
Ngân dội lời tình điệu hát xuân.

*

“Trăng Mơ” – Khúc Tình Tự Của Đêm Hương Giang

Đã bao giờ bạn đứng trước một đêm trăng mờ nơi dòng Hương, lặng nghe tiếng sóng thở dài, để rồi lòng chợt ngân lên những cảm xúc mơ hồ, vừa hoài niệm, vừa xao xuyến? “Trăng mơ” của Thúc Tề là một bài thơ như thế – một bức tranh huyền ảo của cảnh vật và tâm hồn, nơi thiên nhiên và lòng người giao hòa trong những thanh âm dịu dàng, u hoài.

Bài thơ mở ra với một không gian đêm thanh, phủ đầy sắc lạnh:

Một đêm mờ lạnh ánh gương phai,
Suốt giải sông Hương nước thở dài.

Đêm không còn trong trẻo, ánh trăng nhạt nhòa như tấm gương mờ, còn dòng sông Hương cũng nặng trĩu những cơn thở dài. Thiên nhiên trong thơ Thúc Tề không vô tri vô giác mà mang linh hồn, mang nỗi niềm riêng, hòa cùng tâm trạng của con người. Tiếng sóng lăn tăn khua bãi sậy, chiếc thuyền bập bềnh như trôi trong một giấc mơ buồn.

Khung cảnh càng thêm huyền ảo với tầng tầng lớp lớp sương mờ, với nhạc đêm mềm mại và ánh trăng lim dim trên ngọn trúc:

Mây xám xây thành trên núi Bắc,
Nhạc mềm chới với giữa sương êm.
Trăng mờ mơ ngủ lim dim gật,
Ẻo lả nằm trên ngọn trúc mềm.

Trăng trong thơ Thúc Tề không rực rỡ, không huy hoàng mà lại uể oải, chùng chình như còn đang mơ ngủ. Dường như ánh trăng ấy cũng mang tâm trạng của một kẻ si tình, lạc giữa giấc mộng xa vời, ngập ngừng chưa muốn thức tỉnh.

Nhưng rồi, trong không gian tĩnh mịch ấy, tiếng gà gáy cất lên báo hiệu sự chuyển mình của đêm:

Dịp cầu Bạch Hổ mấy bóng ma
Biến mất vì nghe giục tiếng gà
Trăng tỉnh giấc mơ, lười biếng dậy,
Động lòng lệ liễu, giọt sương sa.

Sự biến mất của bóng ma, sự giật mình của ánh trăng như một khoảnh khắc thức tỉnh giữa cơn mộng tưởng. Giọt sương sa, hay chính là giọt lệ âm thầm của trăng, nhỏ xuống tán liễu buồn? Có lẽ, trăng đã mơ một giấc quá dài, để rồi khi tỉnh dậy, chỉ còn lại những hoài niệm mênh mang.

Khép lại bài thơ là hình ảnh một dòng sông tràn ngập ánh trăng, là hơi thở của đêm quấn quýt, là âm điệu của tình yêu ngân vọng trong không gian:

Lai láng niềm trăng tuôn dạ nước
Ngập tràn sông trắng gợn bâng khuâng;
Hương trăng quấn quýt hơi sương ướt
Ngân dội lời tình điệu hát xuân.

Cảnh vật và lòng người dường như không còn ranh giới. Dòng sông giờ đây không chỉ phản chiếu ánh trăng mà còn soi bóng nỗi lòng kẻ si tình. “Hương trăng” lan tỏa khắp không gian, len lỏi vào màn sương đêm, như một thứ tình cảm mong manh, dịu dàng mà da diết.

Bài thơ khép lại nhưng dư âm vẫn còn đó – một nỗi bâng khuâng không gọi tên, một chút mơ hồ giữa thực và mộng, giữa tỉnh thức và say mê. “Trăng mơ” không chỉ là bức tranh của đêm trăng trên dòng Hương, mà còn là khúc nhạc tâm hồn của những ai từng lặng mình trước thiên nhiên, để rồi thấy lòng mình cũng chùng xuống theo từng con sóng, từng giọt sương rơi.

*

Thúc Tề – Nhà báo, nhà văn kiên cường

Thúc Tề (1916-1946), tên khai sinh Nguyễn Phúc Nhuận, sinh tại Huế trong một gia đình nho giáo yêu nước. Ông sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương, báo chí khi theo học tại trường Quốc học Huế. Tuy nhiên, bài báo đầu tay sắc sảo đã khiến ông bị đuổi học.

Kết thân với những văn sĩ tài năng như Hàn Mặc Tử, ông dấn thân vào nghề báo, trở thành cây bút hài hước, sắc bén khiến giới chính quyền e dè. Ông từng làm chủ bút tuần báo Đông Dương và Mai, nhưng chính những bài phóng sự chiến đấu đã khiến báo Mai bị đóng cửa.

Năm 1941, ông gia nhập Việt Minh, hoạt động trong Hội Văn hoá cứu quốc, tiếp tục cầm bút đấu tranh. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông tham gia công tác tuyên truyền kháng chiến. Tháng 12/1946, Thúc Tề bị thực dân Pháp bắt cóc, sát hại tại ga Truồi khi mới 30 tuổi.

Tuy mất sớm, ông để lại dấu ấn trong làng báo với hơn 100 bài ký, điểm sách cùng hai tập văn xuôi: Nợ vănPhù dung và nhan sắc. Năm 1995, ông được truy tặng danh hiệu liệt sĩ và năm 1996 được trao Huân chương Vì sự nghiệp báo chí Việt Nam.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *