Cảm nhận bài thơ: Trinh trắng – Đông Hồ

Trinh trắng

 

Mơn mởn đồng thơm lá cỏ non,
Hồn đêm chưa có dấu sương mòn;
Ao tràn mưa ngọt bờ hoang dại,
Bèo nở xinh xinh cánh nhỏ tròn.

Chầm chậm triều lui biển xuống rồi,
Nõn nường cát ngỏ ý Xanh khơi;
Bâng khuâng nhạc Sóng không lên tiếng,
Dìu dịu Bình Minh tắm nắng tươi.

Lụa cởi, da Chiều Núi tuyết băng,
Làn son phơn phớt hé môi Trăng.
Thiu thiu khoé mắt Sao mơ mộng,
Hồ trải lòng gương nước thẳng bằng.

Giấy mở tơ nhưng óng mỡ ngà,
Ảo huyền nhựa Mực sánh tinh hoa;
Sương đầm ngòi thỏ run run nét,
Đường Tống hồn xưa ngón nõn nà.

Lối về Xóm ấy nhiều đom đóm,
Nhấp nhánh Thiên hà ngập bước sao;
Ngỡ lạc tiền thân vào xứ mộng,
Lòng tiên, nghe tiếng gọi, nao nao.

Bên mái Trăng non đêm quá nửa,
Muôn Hương vườn ngậm cánh mong manh;
Gió mơ, lá ngủ, sương đi lảng,
Bẽn lẽn hoa Quỳnh hé ý Trinh

*

Trinh Trắng – Nét Đẹp Thuần Khiết Giữa Nhân Gian

Trong thơ Đông Hồ, vẻ đẹp không chỉ hiện hữu ở hình ảnh thiên nhiên mà còn tỏa sáng từ những ý niệm thanh cao, trong trẻo. Trinh trắng là một bài thơ mang đầy chất mộng, vẽ nên bức tranh huyền ảo về sự tinh khôi, thuần khiết của tâm hồn và vạn vật. Bằng ngôn ngữ tinh tế, hình ảnh giàu sức gợi, bài thơ khẽ khàng chạm đến cảm thức về sự trong sáng, về vẻ đẹp e ấp nhưng không kém phần lộng lẫy của tạo hóa và con người.

Tinh khôi của thiên nhiên – Biểu tượng của sự thuần khiết

“Mơn mởn đồng thơm lá cỏ non,
Hồn đêm chưa có dấu sương mòn;
Ao tràn mưa ngọt bờ hoang dại,
Bèo nở xinh xinh cánh nhỏ tròn.”

Mở đầu bài thơ, Đông Hồ đưa ta về khung cảnh một buổi sớm tinh mơ, nơi đồng cỏ còn xanh non, nơi hồn đêm chưa bị vấy bởi dấu vết của thời gian. Hình ảnh ao nước tràn đầy sau cơn mưa, cánh bèo nhỏ xinh đang nở tựa như một sự sống thuần khiết vừa chớm, không chút bụi trần. Ở đây, thiên nhiên không chỉ đơn thuần là một bức tranh tĩnh, mà còn là sự ẩn dụ cho nét đẹp nguyên sơ, cho những điều chưa bị thời gian bào mòn.

Sự giao hòa giữa thiên nhiên và tâm hồn con người

“Chầm chậm triều lui biển xuống rồi,
Nõn nường cát ngỏ ý Xanh khơi;
Bâng khuâng nhạc Sóng không lên tiếng,
Dìu dịu Bình Minh tắm nắng tươi.”

Những câu thơ tiếp theo đưa ta đến khoảnh khắc bình minh, khi thủy triều rút dần, để lại trên bãi cát dấu vết của biển khơi. Cái “nõn nường” của cát như một lời thì thầm, như một nỗi lòng mong manh gửi về nơi xa xôi. Đông Hồ không chỉ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên mà còn thổi vào đó tâm hồn của con người – bâng khuâng, nhẹ nhàng, như một bản nhạc sóng lặng im mà vẫn ngân vang trong lòng người.

Vẻ đẹp của trinh nguyên – Sự tinh khiết trong tâm hồn

“Lụa cởi, da Chiều Núi tuyết băng,
Làn son phơn phớt hé môi Trăng.
Thiu thiu khoé mắt Sao mơ mộng,
Hồ trải lòng gương nước thẳng bằng.”

Hình ảnh trăng, sao, mặt hồ… đều được nhân cách hóa, tựa như một sinh thể mang tâm hồn riêng. “Lụa cởi” – một cách miêu tả tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên khi màn đêm dần buông, để lộ ra sắc trời thanh khiết, trong veo như da tuyết. Cả bầu trời và mặt nước đều như một tấm gương soi, phản chiếu sự thuần khiết của đất trời.

Trinh trắng – Không chỉ là một vẻ đẹp, mà là một trạng thái tâm hồn

“Bên mái Trăng non đêm quá nửa,
Muôn Hương vườn ngậm cánh mong manh;
Gió mơ, lá ngủ, sương đi lảng,
Bẽn lẽn hoa Quỳnh hé ý Trinh.”

Hoa Quỳnh – loài hoa chỉ nở về đêm, tượng trưng cho sự thanh khiết, e ấp và mong manh. Hình ảnh ấy gợi lên nét đẹp trinh nguyên không chỉ trong thiên nhiên mà còn trong lòng người. Sự “bẽn lẽn” của hoa như một sự kín đáo, giữ gìn, một vẻ đẹp không phô trương mà tự thân đã tỏa sáng.

Thông điệp: Trân quý sự thuần khiết giữa dòng đời

Với bài thơ Trinh trắng, Đông Hồ không chỉ khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn ngợi ca sự trong sáng, thanh cao trong tâm hồn con người. Trinh trắng không chỉ là một trạng thái của vạn vật, mà còn là một lý tưởng, một niềm tin rằng dù cuộc đời có trôi đi, vẫn có những điều đẹp đẽ giữ được bản chất thuần khiết của nó. Giữa dòng đời biến động, sự trong trẻo của tâm hồn chính là ánh sáng giữ cho con người không lạc lối.

*

Đông Hồ – Nhà thơ và người bảo tồn văn hóa dân tộc

Đông Hồ (1906-1969), tên thật Lâm Tấn Phác, là một nhà thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học có tầm ảnh hưởng lớn đối với nền văn học Việt Nam. Sinh ra tại Hà Tiên, vùng đất giàu truyền thống văn hóa, ông sớm bộc lộ niềm say mê đối với quốc văn và quốc ngữ, từ đó dành trọn đời để nghiên cứu, giảng dạy và sáng tác bằng tiếng Việt.

Là thành viên của nhóm “Hà Tiên tứ tuyệt”, Đông Hồ không chỉ sáng tác thơ mà còn viết văn, ký, khảo cứu, góp phần quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy văn hóa dân tộc. Ông từng sáng lập Trí Đức học xá, xuất bản tuần báo Sống, điều hành nhà xuất bản Bốn Phương và tạp chí Nhân Loại, với mục tiêu cổ vũ tinh thần dân tộc, đề cao giá trị tiếng Việt.

Thơ và văn của ông nhẹ nhàng, sâu sắc, giàu tình cảm, đi từ thể loại truyền thống đến hiện đại. Những tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến Thơ Đông Hồ, Linh Phượng, Cô gái xuân, Hà Tiên thập cảnh… Bên cạnh đó, ông cũng được biết đến là người tiên phong trong việc phát triển thư pháp chữ Quốc ngữ.

Cuộc đời và sự nghiệp của Đông Hồ là minh chứng cho một tấm lòng tha thiết với văn hóa Việt Nam. Ông mất năm 1969 ngay trên bục giảng khi đang giảng bài thơ Trưng Nữ Vương, để lại một di sản văn học đáng trân trọng.

Viên Ngọc Quý

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *