Trở rét
Vuờn cây úa rùng mình gieo lá úa
Ngọn khói chiều cuộn rối nóc nhà tranh,
Trời đầy mây bay về đàn chim nhỏ
Gió điên cuồng xô đẩy luỹ tre xanh.
Trời trở rét! Người làng tôi đã thấy:
Áo mền, áo kép giở ra thi.
Những cô gái, với lá thuốc nhuộm răng đen nháy
Trâu, bò thưa bóng trên bờ đê.
Chân bờ đê trên cánh đồng lúa đỏ,
Nắng mờ tránh vội áng sương lan.
Một nông phu bước nhanh trên bờ cỏ
Miệng phàn nàn tráo trở tiết trời luôn.
*
Trở Rét – Khi Đông Gõ Cửa Làng Quê
Khi mùa thu khép lại những ngày hanh hao cuối cùng, mùa đông lặng lẽ kéo về trong hơi lạnh se sắt. Cơn gió bấc đầu tiên lùa qua những hàng cây, cuốn theo lá úa rơi đầy ngõ xóm. Trong bài thơ Trở rét, Anh Thơ đã tái hiện khoảnh khắc giao mùa ấy bằng những hình ảnh chân thực, mang đậm phong vị làng quê Việt Nam. Không chỉ là một bài thơ tả cảnh, Trở rét còn chất chứa hơi thở cuộc sống, phản ánh nỗi lo toan và sự thích nghi của con người trước sự chuyển mình của thiên nhiên.
Cảnh Vật Chuyển Mình Trong Cơn Gió Lạnh
“Vườn cây úa rùng mình gieo lá úa
Ngọn khói chiều cuộn rối nóc nhà tranh,
Trời đầy mây bay về đàn chim nhỏ
Gió điên cuồng xô đẩy lũy tre xanh.”
Cơn gió rét đầu tiên ùa về khiến cả thiên nhiên rung động. Những khu vườn, những hàng cây rùng mình tiễn đưa từng chiếc lá úa. Làn khói bếp vốn dĩ bình yên giờ đây cũng bị gió cuốn xoáy, rối bời trên những mái nhà tranh nghèo.
Đàn chim nhỏ vội vã tìm về tổ, bầu trời nặng trĩu mây xám báo hiệu những ngày lạnh giá đang cận kề. Trong cơn gió rét, những lũy tre vốn vững chãi cũng bị xô nghiêng, tạo nên một khung cảnh dữ dội, khác hẳn với vẻ hiền hòa của làng quê ngày thường.
Con Người Trước Cái Lạnh Mùa Đông
“Trời trở rét! Người làng tôi đã thấy:
Áo mền, áo kép giở ra thi.
Những cô gái, với lá thuốc nhuộm răng đen nháy
Trâu, bò thưa bóng trên bờ đê.”
Mùa rét đến, người làng quê không ai bảo ai, tất cả đều lục tìm những chiếc áo dày nhất để chống chọi với cái lạnh. Chi tiết “áo mền, áo kép giở ra thi” gợi lên sự tất bật, cảnh chuẩn bị quen thuộc mỗi khi trời trở rét.
Giữa khung cảnh ấy, thấp thoáng bóng dáng những cô gái quê nhai trầu, răng nhuộm đen bóng – một hình ảnh đậm chất Việt Nam xưa. Trong khi đó, trâu bò cũng ít dần trên đồng, bởi thời tiết trở lạnh, việc chăn thả cũng phải thu hẹp lại.
Cảnh Đồng Quê Mờ Sương – Hình Ảnh Người Nông Dân
“Chân bờ đê trên cánh đồng lúa đỏ,
Nắng mờ tránh vội áng sương lan.
Một nông phu bước nhanh trên bờ cỏ
Miệng phàn nàn tráo trở tiết trời luôn.”
Cảnh vật chìm dần trong màn sương, cánh đồng lúa như khoác lên mình màu đỏ nhạt dưới ánh nắng yếu ớt. Mặt trời cũng vội lẩn khuất trong lớp sương dày đặc, không còn sáng rực như những ngày trước.
Giữa khung cảnh ấy, hình ảnh người nông dân hiện lên rất đỗi thân thuộc – dáng bước nhanh nhẹn, tất bật với công việc đồng áng, nhưng miệng không quên phàn nàn về “tráo trở tiết trời luôn”. Chỉ một câu thơ ngắn ngủi nhưng đã phản ánh chân thực tâm trạng của những con người gắn bó với đất đai, khi thời tiết trở lạnh ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và công việc của họ.
Thông Điệp Của Bài Thơ – Quy Luật Của Tự Nhiên Và Đời Sống
Trở rét không chỉ đơn thuần là một bài thơ tả cảnh giao mùa, mà còn chứa đựng những suy ngẫm về cuộc sống. Cái rét đến đột ngột, mang theo những thay đổi rõ rệt trong thiên nhiên và con người. Từ lũy tre, bờ đê, cánh đồng, cho đến khói bếp, áo mền – tất cả đều bị tác động bởi quy luật của đất trời.
Nhưng dù tiết trời có thay đổi, cuộc sống vẫn tiếp diễn. Người nông dân vẫn ra đồng, người làng vẫn tất bật chuẩn bị cho mùa đông. Đó chính là vẻ đẹp của sự thích nghi, của sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên – một sự gắn bó bền chặt, không thể tách rời.
Lời Kết
Bằng ngôn ngữ bình dị nhưng sâu sắc, Anh Thơ đã vẽ nên một bức tranh làng quê ngày trở rét vừa chân thực, vừa đầy cảm xúc. Đọc Trở rét, ta không chỉ cảm nhận được cái lạnh đầu đông mà còn thấu hiểu được những đổi thay trong cuộc sống con người. Đó là sự tất bật, là những nỗi lo toan, nhưng cũng là sự kiên trì, bền bỉ của những con người quê hương – những con người vẫn luôn vững vàng dù thời tiết có đổi thay đến nhường nào.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.