Cảm nhận bài thơ: Tuổi trẻ không yên – Nguyễn Khoa Điềm

Tuổi trẻ không yên

 

Chúng ta lớn lên những năm tháng không bình yên
Dẫu em vẫn màu áo trắng yêu tin

Đi trên đường “mười tám tuổi”
Dẫu anh đi quen
Con đường kẽm gai quằn quại
Dẫu thành phố hoàng hôn
Chuông thu không hai mươi ngôi chùa thong thả
Dẫu bầu trời ta ở
Nóc nhà thờ Cứu thế như một lời xin
Lòng ta không bình yên
Lòng ta vẫn vẫn đầy khắc khoải…

Bốn tao nôi day khung trời ngang trái
Mẹ đưa ta vào đời
Thành phố đã đầy bóng giặc
Thành phố đầy bóng người ngửa tay
Ôi những con cò “tỵ nạn” khô gầy

Đêm đêm lại về hàng cây thành phố
Lao xao tìm chốn ngủ
Những bờ bãi nào không dành cho cò nữa
Những luỹ tre nào bom đã khai quang?

Ôi những hàng cây từng in bóng huy hoàng
Trên đại lộ những năm đời mới lớn
GIờ đổi lá trầm ngâm màu tóc trắng
Của bụi đường và khói hơi cay…

Thành phố bên sông bè bạn rất đầy
Chợt trở lại, hoang vu bày quán xá
Khói thuốc lá của những người xa lạ

Vẽ những ngày không ai gọi tên…
Bao nỗi buồn đã được gọi lên
Trong số điểm danh, giọng thầy giáo cũ
Người vắng mặt: những dấu không như miệng hố
Người còn đây: những chấm không bình yên…

*

Xe bắt lính ngoài đường
Rào kẽm gai ngoài đường
Cha mẹ chạy gạo ngoài đường
Xe Mỹ chẹt người ngoài đường
Hồi trống trường không khép ta vào yên tĩnh nữa
Nhìn màu bảng đen nhớ màu mặt đường…

Thầy giáo đến rồi. Chúng con đứng lên
Chúng con chào thầy như hối lỗi
Thầy đừng trách chúng con là “bầy khó nói”…
Chúng con là “Cúp-cua lang thang”…

Có gì đâu chúng con nhìn lên bản đồ Việt Nam
Sao Tổ quốc mà chỉ còn nửa nước
Dẫu địa lý chúng con thường ít thuộc
Nhưng nỗi đau này chúng con nhớ hơn

Có gì đâu chúng con muốn yêu thương
Sao thầy giảng chỉ những lời cay đắng
Máu thì đỏ mà phấn thầy thì trắng
Có vẽ nổi tâm hồn con không?
Thầy đừng buồn cái giấy gọi Quang Trung
Còn đồng nghĩa với mười năm đi học
Chúng con đến đây cho những thằng CIA điểm mặt
Thầy có gì đuổi chúng giúp con không?

Phượng vẫn rơi từng cánh tươi hồng
Đau như máu những tâm hồn son trẻ
Sao con học để làm bầy nô lệ
Súng Mỹ hôm nay thành giáo cụ học đường?…

*

Sông Hương ơi Sông Hương
Người còn nguồn với bể
Để đi và để đến
Còn ta 25 tuổi
Trôi cạn trên mặt đường…

Ta lớnn hư mùa lũ
Ào ào thành phố tuổi thơ
Rồi ngày mai mỗi kiệt phố chơ vơ
Những vết bùn chúng ta để lại…

25 năm qua chưa một đời trai trẻ?
Ta soi gương, tái mặt
Này tóc, này râu, nấu cơm, bồng trẻ
Để mẹ làm thuê tối mặt tối mày
Để em đi trường cho Mỹ vuốt má
Để cha đi làm, họ trong hai tay
Chúng ta chưa qua một thời trai trẻ
Ra đường bị bắt lính ngay
Nên phải ở những nơi gián ở
Nên đeo gương cho cận thị suốt đời
Nên ngốn đi-a-mốc cho một đêm khô hai lít nước
Nên nhịn đói, thức đêm đốt cháy con người
Nên ăn tỏi cho tim rung, hút thuốc nhiều cho phổ nám
Uống nhị thiên đường cho thắt ruột té re
Huỷ hoại hết từng đường gân bắp thịt
Từ màu mắt trong đến nụ cười hồng
Huỷ hoại hết những gì mẹ cha trao xương gửi thịt
Để vật vờ như cỏ lác đầu sông…
Đất nước mai sau có tha thứ ta không?
Chúng ta không thể cầm bay, nâng búa nữa.
Ôi ta đã đốt cháy hôm nay để không cầm vũ khí
Có ngờ đâu ta thiêu cháy cả tương lai
Có ngờ đâu không muốn cầm súng giết người
Ta lại giết chính ta
Ta để trôi sông những ngà những ngọc
Trước quân giặc ta không vươn vai dài tóc
Để cầm doi lại muốn hãm mình thành đứa trẻ lên ba
Ta đã đau thương, phủ phục, mù loà
Nhận bị trị lằn roi vừa giáng xuống
Ta căm giận ngàn đời chúng mày, giặc Mỹ!
Ta đau buồn đất nước hiểu ta không?
 
*

– Các anh về đâu những người qua đường?
– Chúng tôi đến Hoa Lư
– Chúng tôi về đại hội
– Đại hội các anh là đại hội Híp-pi Giao Chi
– Vâng đại hội này là đại hội những người tuổi trẻ
Thờ phụng tuổi trẻ mình như Tổ quốc thiêng liêng…
– Sao các anh đến Hoa Lư
Không đem theo mỗi người một cành lau
Để làm cờ và tập trận
Như Đinh Bộ Lĩnh ngày xưa từng nuôi chí lớn
Mà các anh mang trên người
Nhiều tóc, nhiều râu và giẻ rách mà thôi?
– Chúng tôi không phải là con người trong nghĩa cũ.
Chúng tôi là một động vật mới mẻ
Chúng tôi cao hơn lịch sử, cao hơn mọi sự dưỡng sinh
Chúng tôi vượt lên dòng máu và quá khứ
Chúng tôi sống không cần pháp luật, thói quen và chế độ
Chúng tôi là tuyệt vọng cùng của sự khai thác cá nhân
Khai thác bản thân và hưởng thụ tận cùng
Chúng tôi tự do làm tình, tự do buồn, tự do ca hát
Tự do chết khi quét cùng thân xác…
– Các anh không cần liên hệ xứ sở đất đai
– A ha! Sao chúng tôi không cần đến đất đai?
Đất đai là cái chiếu tôi ăn, cái giường tôi ngủ
Là điểm tựa cho mọi nguồn lạc thú
Nếu không đất đai tôi có chân để làm gì?
-Những một ngày nào trong một phút nghĩ suy
Các anh chợt nhớ mình đã là man rợ
Các anh từ bỏ nhân dân, từ bỏ con đường tiến hóa
Như “chính sách Việt Nam” được gọi là “từ bỏ” của Hoa Kỳ?
“Man rợ” hay “từ bỏ” nó là cái gì?
Trong từ điển xã hội của chúng tôi nó không hề có
Chúng tôi sống bằng những định luật đầu tiên,
Những ham muốn đầu tiên của con người muôn thuở
Trí tuệ, luân lý già rồi mà chúng tôi thì trẻ
Chúng tôi chào trí tuệ, luân lý lụ khụ chúng tôi đi…
– Các anh lầm rồi, hỡi anh bạn Híp-pi
Các anh muốn xây dựng đời mình riêng một cõi
Để nằm ngoài chiến tranh, chối bỏ lo toan nhân loại
Các anh tìm về những hang động ngày xưa
Nhân dân kêu cháy nhà anh giả điếc, không thưa
Dân tộc đã đau thương, anh muốn thêm rách nát
Anh ca hát múa may bên tội ác
Anh lang thang mặc cường bạo lộng hành
Anh là đứa con bất hạnh của chiến tranh
Đứa con hoang của văn minh người Mỹ
Chúng đẻ các anh trên giường đô-la và vũ khí
Bú mớn cho anh là lối sống Hoa Kỳ
Rồi dựng các anh lên, đẩy các anh đi
Để đầu độc xã hội này như hóa chất
Để truyền nhiễm tuổi trẻ này như dịch hạch
Các anh là sắc thái khác của đạn bom
Để “khai quang” vào lĩnh vực tâm hồn
Như bom đạn từng khai quang tận cùng sông núi
Các anh là bầy thiêu thân của ánh đèn đêm tối
Đã huỷ mình còn che bớt nguồn sáng quê hương
Nhân dân đang đấu tranh cần những cái pha đèn
Để chiếu sáng chứ không cần ai bưng lấy mắt
Để đi tới và tìm ra bóng giặc
Quét chúng nó đi giành lấy bình minh
Chúng tôi đây cùng lứa tuổi các anh
Chúng tôi đã buồn đau, đã nhiều ngày mất hướng
Chúng tôi đã treo trên đầu những quả sung ảo tưởng
Nào tự do, dân tộc, công bằng
Chúng tôi đã tập “nôn” và “nổi loạn” hiện sinh
Chúng tôi đã mở “vực thẳm” trên mặt đường và mắt người yêu mến
Chúng tôi đã “mới” đã “dấn thân” đã “phản” rồi, trăm chuyện
Đã xuống đường bảo vệ nỗi câu kinh
Chúng tôi thay áo, thay tóc hoài để cắt nghĩa văn minh
Đã uống rượu, để râu và ngậm tẩu
Để được ngồi trên đỉnh Ô-lem thời đại mới
Nhưng chúng tôi đã được những gì:
Được nghe dối lừa, được ăn bánh vẽ nguyên xí
Được tận gốc, tật nguyền, tê dại
Đwocj mặc cảm là đàn cừu vọng ngoại
Nhưng đau hơn là nỗi hối hận không cùng
Trong khi nhân dân càn những anh hùng
Để ra trận và dựng cờ thu nghĩa
Thì chúng tôi sống hoài, sống phí
Sống kiểu xa ngất ngưởng ở bên lề
Để cúng cùng nhận khẩu sung USA
Rước trụy lạc mà đau vì trụy lạc
Tập cuồng bạo mà che cho hèn nhát
Lấy hôm nay mà bào chữa ước mơ
Lấy hình hài chặn linh cảm bơ vơ
Đem cười nhạt để trấn an cái chết
Đang thầm lặng đào sâu từng khối huyệt
Giữa linh hồn… Ôi tuổi trẻ hư vô
Chúng mê man, nhân dân đến tự bao giờ
Vực chúng tôi lên và nói đầy độ lượng:
– “Hỡi tuổi trẻ như một rừng cây lớn
Nhận nắng trời gió bão đầu tiên
Hãy đến đây làm người lính trung kiên
Trong đội ngũ những người đi cứu nước
Hãy đứng dậy! Và giơ cao ngọn đuốc!
Của tình yêu đã khơi lửa ngàn đời
Hãy nhận mặt quân thù và xuất kích hôm nay
Giành chiến thắng và làm nên hạnh phúc!”…
Như thế đó, tất cả gì rất thật
Mà chúng ta cần đối thoại thảo ngay
Dẫu các anh cầm cái chết trong tay,
Hãy ném trả vào ngay đầu bọn Mỹ
Hãy cùng chúng tôi đứng lại trước bờ chân lý
Và tình yêu không có tự bao giờ
Chỗ đứng chúng ta không phải ở Hoa Lư
Mà trên con đường ta tìm về dân tộc!

*

Tiếng Gọi Của Tuổi Trẻ Trong Những Ngày Không Yên

Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ nên một bức tranh dữ dội về một thế hệ trẻ Việt Nam bị cuốn vào vòng xoáy của chiến tranh, mất mát và khủng hoảng lý tưởng trong bài thơ Tuổi trẻ không yên. Đó không chỉ là câu chuyện của một cá nhân, mà là tiếng thở dài của cả một thế hệ lớn lên giữa khói lửa bom đạn, giữa những lằn ranh mong manh của sự sống và cái chết, giữa những giấc mơ tuổi trẻ và thực tại nghiệt ngã.

Tuổi trẻ – giấc mơ và khắc khoải

Ngay từ những câu thơ đầu, tác giả đã nhấn mạnh sự đối lập giữa lý tưởng tuổi trẻ và thực tế tàn khốc:

“Chúng ta lớn lên những năm tháng không bình yên
Dẫu em vẫn màu áo trắng yêu tin”

Chiến tranh không chỉ là những cuộc giao tranh trên chiến trường, mà còn len lỏi vào từng góc phố, từng lớp học, từng con đường đầy kẽm gai. Những thanh niên như anh, như em, lẽ ra đang sống với những giấc mơ trong trẻo của tuổi trẻ, lại bị ném vào một thời đại đầy những dấu lặng.

Bức tranh của thành phố hiện lên vừa quen thuộc vừa xa lạ: những mái chùa thong thả, những hàng cây trầm ngâm màu bụi đường, những con cò khô gầy tìm chốn ngủ giữa thành phố đầy bóng giặc. Sự đối lập ấy không chỉ là hiện thực đau lòng, mà còn là tiếng lòng quặn thắt của những người trẻ khao khát một cuộc đời khác – một cuộc đời họ đáng lẽ phải được hưởng.

Tuổi trẻ – những nỗi đau mang tên Tổ quốc

Khi chiến tranh tràn vào lớp học, khi hồi trống trường không còn gắn liền với yên bình mà gợi nhớ đến màu mặt đường đẫm máu, tuổi trẻ buộc phải đối diện với một câu hỏi: học để làm gì?

“Phượng vẫn rơi từng cánh tươi hồng
Đau như máu những tâm hồn son trẻ
Sao con học để làm bầy nô lệ
Súng Mỹ hôm nay thành giáo cụ học đường?”

Những trang sách, những viên phấn trắng, những bài giảng đã không còn đủ sức để giữ lấy sự trong trẻo của một thế hệ. Khi tổ quốc chỉ còn nửa nước trên bản đồ, khi bạn bè dần bị xóa tên trên danh sách điểm danh, khi lệnh bắt lính trở thành nỗi ám ảnh ngoài đường phố, tuổi trẻ không còn được là chính mình. Họ bị đẩy vào một cuộc giằng xé giữa những lý tưởng lớn lao và những ngờ vực, giữa sự phản kháng và nỗi tuyệt vọng.

Tuổi trẻ – vực thẳm của lạc lối

Không phải ai cũng đủ sức mạnh để đối diện với thực tại. Có những người đã chọn con đường trốn chạy – trốn chạy chiến tranh, trốn chạy trách nhiệm, trốn chạy chính bản thân mình. Những phong trào Híp-pi, những triết lý sống buông thả, những đêm dài vật vờ trong rượu và khói thuốc – tất cả chỉ là lớp vỏ ngụy trang cho một nỗi đau chưa thể gọi tên.

“Chúng tôi đã buồn đau, đã nhiều ngày mất hướng
Chúng tôi đã treo trên đầu những quả sung ảo tưởng”

Nhưng sự trốn chạy ấy có thực sự giải thoát được họ không? Khi đất nước vẫn rên xiết, khi nhân dân vẫn đau khổ, họ có thể nhắm mắt quay lưng mãi được không? Đó là câu hỏi mà Nguyễn Khoa Điềm đặt ra cho những con người trẻ tuổi đang đứng trước ngã rẽ cuộc đời.

Tuổi trẻ – thức tỉnh và đứng dậy

Trong tận cùng của lạc lối, ánh sáng vẫn còn. Nhân dân – những con người lặng thầm nhưng vững chãi, đã giang tay kéo tuổi trẻ khỏi vực thẳm của sự hoang mang. Họ không trách móc, không lên án, mà chỉ nói với tất cả sự bao dung:

“Hỡi tuổi trẻ như một rừng cây lớn
Nhận nắng trời gió bão đầu tiên
Hãy đến đây làm người lính trung kiên
Trong đội ngũ những người đi cứu nước”

Tuổi trẻ không thể cứ mãi u mê. Tuổi trẻ phải đứng lên, phải nắm lấy vận mệnh của mình, phải cầm lấy ngọn đuốc để soi sáng con đường về với dân tộc. Đó không chỉ là lời kêu gọi, mà còn là niềm tin – niềm tin rằng mỗi người trẻ đều có thể tìm thấy con đường đúng đắn nếu họ chịu mở mắt ra để nhìn.

Lời nhắn gửi

Tuổi trẻ không yên không chỉ là một bài thơ của quá khứ, mà còn là một lời nhắn nhủ cho mọi thế hệ sau này. Có thể hôm nay chúng ta không còn sống trong khói lửa chiến tranh, nhưng những thách thức của thời đại chưa bao giờ vơi bớt. Chúng ta vẫn đứng trước những ngã rẽ, vẫn có những cám dỗ, vẫn có những giấc mơ còn dang dở. Nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta không được để tuổi trẻ của mình trôi qua một cách hoài phí.

Hãy sống, hãy đấu tranh, hãy tin tưởng. Vì nếu tuổi trẻ không tự đứng lên, ai sẽ làm thay chúng ta?

*

Nguyễn Khoa Điềm – Nhà thơ và Nhà chính trị Việt Nam

Nguyễn Khoa Điềm (sinh ngày 15/4/1943), tên thật là Nguyễn Hải Dương, là một nhà thơ, nhà chính trị nổi bật của Việt Nam. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin và Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X.

Sinh ra tại Thừa Thiên Huế, Nguyễn Khoa Điềm xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn hóa, là con trai của nhà báo Hải Triều. Ông học tập tại miền Bắc và tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964. Sau đó, ông vào miền Nam tham gia phong trào học sinh, sinh viên, hoạt động trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vừa chiến đấu vừa sáng tác thơ ca.

Nguyễn Khoa Điềm được biết đến với những tác phẩm mang đậm chất sử thi và tinh thần yêu nước. Tiêu biểu nhất là trường ca Mặt đường khát vọng (1974), tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần dân tộc và tư tưởng về đất nước, con người Việt Nam. Ngoài ra, ông còn có nhiều tập thơ giá trị như Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007), và được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.

Sau khi nghỉ hưu, ông sống tại Huế, tiếp tục đóng góp cho văn học nước nhà bằng những tác phẩm giàu ý nghĩa. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca kháng chiến và văn học Việt Nam hiện đại.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *