Vô sản chuyên chính
Tôi đã từng làm thơ về mây về gió,
Tôi sẽ còn làm thơ về sen ngó với đào tơ,
Hẹn sớm mong chiều tôi vẫn sẽ làm thơ,
Nhưng hơn cả xưa kia, hơn cả bao giờ,
Tôi muốn làm bài thơ về chuyên chính vô sản.
*
* *
Đã khuya lắm. Chừng hai ba giờ sáng.
Ngủ nhiều rồi tôi thức giấc. Đêm đen
Chiếu lưa thưa mấy giãy lạnh cột đèn;
Bóng tối xe vào với giờ với khắc;
Ngực trái đất tròn tôi nghe đang đập;
Gió tự vô cùng về lật mảnh chăn;
Đây là giờ giữa âm phủ dương gian,
Đêm với ngày như bụng người đang chửa.
Tôi tự hỏi mình:
– Giờ này có ai trăn trở?
Có ai mắt mở? Ai khóc thầm không?
Có ai ban chiều ăn chẳng no lòng,
Cái đói dậy như trẻ con khóc thét?
Có ai nhức những vết thương lở loét,
Ai ốm không, thiếu thuốc vẫn nằm chờ…
Thiên hạ giờ này hết khổ hay chưa?
Có con sư tử nào đang xé người ăn thịt?
Có trận lụt nào vỡ bờ gầm thét,
Đầu người đang chìm quét giữa giòng xanh?
Ở Bắc Phi ngùn ngụt lửa chiến tranh
Những nhà nào đêm nay đang cháy dở?
Ở những nơi đang ban ngày, hiện giờ đang mở cửa,
Bao nhiêu roi da đang quật đổ người?
*
Không, tôi không muốn quay về những quy luật cũ rồi,
Luật chó sói, luật hỗn mang mù quáng.
Chúng bay góp sức tàn, cố tình nhiễu loạn,
Muốn làm mưa, làm hạn cũng tuỳ bay;
Nhưng Đảng đã về hạ trại ở đây,
Ta sẽ chặt nghìn tay con bạch tuộc!
Bọn hổ báo ta ghè nanh, ta bẻ vuốt,
Những luật điên cuồng ta buộc sẽ thông minh,
Luật chiến tranh thay bằng luật hoà bình!
Bọn rồng đất ta dần dần tóm gáy,
Vô sản tài tình, chuyên chính là thế đấy!
Con ngựa bất kham
Ta khớp quai hàm,
Chuyên chính là tát cạn những lòng tham!
Đêm khuya khoắt đang tranh giành thiện, ác.
Rắn rết bò, chim chóc thu mình dớn dác;
Cụ già ho, à ơi mẹ dỗ con;
Thắng hay thua đời sẽ méo hay tròn?
Trận quyết liệt!
– Yên lòng và vững chí!
Ôi êm ái khi tay cầm vũ khí,
Chuyên chính của ta là thép cương kiên
Nhưng cũng là đôi mắt mẹ hiền;
Chuyên chính giữ gìn cho hoa được nở,
Chăn nhân ái ủ muôn nghìn hơi thở…
*
* *
Tôi đã từng làm thơ về gió về mây,
Tôi làm thơ về tư tưởng đêm nay.
Bọn chúng cười ta làm thơ chính trị,
Nếu hình thức có hơi non một tý,
Chúng vui mừng la ó vỗ tay ran;
Mặc chúng kêu rêu lá rụng, hoa tàn,
Tôi thẳng thắn ngợi ca nền chuyên chính!
7-1957
*
Vô sản chuyên chính – Tiếng thơ của đấu tranh và bảo vệ chính nghĩa
Xuân Diệu, thi sĩ của những vần thơ tình nồng cháy, những áng thơ lãng mạn về gió mây, trăng nước, nay lại cất lên giọng thơ hừng hực khí thế cách mạng. Vô sản chuyên chính không còn là những câu thơ mộng mơ về đào tơ, sen ngó, mà là tiếng nói mạnh mẽ của một con người đứng trong hàng ngũ cách mạng, ngợi ca lý tưởng đấu tranh của giai cấp công nông.
Bài thơ là sự chuyển mình mạnh mẽ của người thi sĩ trước hiện thực lịch sử, thể hiện một niềm tin sắt đá vào sức mạnh của chuyên chính vô sản – vũ khí bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ những người từng bị áp bức, bóc lột.
Những trăn trở trong đêm – Nỗi đau của nhân loại
Xuân Diệu mở đầu bài thơ bằng một lời khẳng định về con đường thơ ca của mình:
“Tôi đã từng làm thơ về mây về gió,
Tôi sẽ còn làm thơ về sen ngó với đào tơ,”
Nhưng giờ đây, ông muốn làm một bài thơ về chuyên chính vô sản – một chủ đề lớn lao, mang tính thời đại. Bởi thơ ca không chỉ dành để ngợi ca cái đẹp, mà còn là vũ khí, là tiếng nói của lẽ phải, của công lý.
Giữa đêm khuya thanh vắng, khi “ngực trái đất tròn tôi nghe đang đập”, nhà thơ thao thức, tự vấn:
“Tôi tự hỏi mình:
– Giờ này có ai trăn trở?
Có ai mắt mở? Ai khóc thầm không?”
Câu hỏi không chỉ là lời độc thoại, mà còn là lời kêu gọi đồng cảm với những con người khổ đau trên khắp thế giới. Trong màn đêm của nhân loại, vẫn có những kẻ đói khát, những người bệnh tật không có thuốc chữa, những chiến trường rực lửa chiến tranh. Hình ảnh “con sư tử nào đang xé người ăn thịt” hay “trận lụt nào vỡ bờ gầm thét” là những ẩn dụ sắc lạnh về sự tàn bạo, bất công vẫn đang hoành hành trên trái đất.
Những câu thơ tiếp nối nhau như nhịp đập gấp gáp của một trái tim không thể yên bình trước nỗi đau của đồng loại:
“Ở những nơi đang ban ngày, hiện giờ đang mở cửa,
Bao nhiêu roi da đang quật đổ người?”
Đó là những hình ảnh về chế độ thực dân, đế quốc đang đàn áp, hành hạ những con người lao động. Thơ Xuân Diệu không chỉ vẽ lên hiện thực, mà còn là một tiếng gọi: Liệu có thể để tình trạng này tiếp diễn mãi hay không?
Chuyên chính vô sản – Lời tuyên chiến với bất công
Sau những trăn trở trong đêm, Xuân Diệu khẳng định niềm tin mãnh liệt vào chuyên chính vô sản – con đường duy nhất để bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ nhân dân khỏi áp bức, bóc lột:
“Không, tôi không muốn quay về những quy luật cũ rồi,
Luật chó sói, luật hỗn mang mù quáng.”
Đó là lời tuyên chiến với những tàn dư của chế độ cũ – nơi mạnh được yếu thua, nơi những kẻ giàu có giẫm đạp lên người nghèo khổ để củng cố quyền lực.
Nhưng những thế lực ấy không dễ dàng từ bỏ. Chúng “cố tình nhiễu loạn”, tìm mọi cách chống phá. Và Xuân Diệu, với niềm tin cách mạng, khẳng định một quyết tâm sắt đá:
“Nhưng Đảng đã về hạ trại ở đây,
Ta sẽ chặt nghìn tay con bạch tuộc!”
Chuyên chính vô sản không phải là sự áp đặt tùy tiện, mà là hành động cương quyết để trấn áp những thế lực phản động, bảo vệ sự công bằng cho nhân dân lao động.
“Bọn hổ báo ta ghè nanh, ta bẻ vuốt,
Những luật điên cuồng ta buộc sẽ thông minh,
Luật chiến tranh thay bằng luật hoà bình!”
Hình ảnh “bẻ vuốt hổ báo”, “buộc luật điên cuồng” là biểu tượng cho sự thay đổi của thời đại. Không còn những ngày tháng chiến tranh phi nghĩa, không còn sự thống trị tàn bạo, mà thay vào đó là một thế giới công bằng, hòa bình dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Chuyên chính – Sự cứng rắn và lòng nhân ái
Một điểm đặc biệt trong Vô sản chuyên chính là Xuân Diệu không chỉ nhìn chuyên chính như một công cụ đấu tranh, mà còn là sự bảo vệ, là tình thương dành cho nhân dân:
“Chuyên chính của ta là thép cương kiên
Nhưng cũng là đôi mắt mẹ hiền;
Chuyên chính giữ gìn cho hoa được nở,
Chăn nhân ái ủ muôn nghìn hơi thở…”
Ở đây, chuyên chính không chỉ là “thép cương kiên”, là sự trừng trị kẻ thù, mà còn là “đôi mắt mẹ hiền” – sự chăm lo, che chở cho những người lao động, những con người đã bao năm chịu áp bức.
Thơ chính trị – Lời khẳng định của thi sĩ
Trong bài thơ, Xuân Diệu cũng dành một đoạn để nói về vai trò của thơ chính trị. Ông biết rằng có những kẻ chê bai thơ chính trị, coi nó là khô khan, thiếu nghệ thuật. Nhưng ông vẫn kiên định với con đường của mình:
“Bọn chúng cười ta làm thơ chính trị,
Nếu hình thức có hơi non một tý,
Chúng vui mừng la ó vỗ tay ran;”
Nhưng thơ chính trị không phải là thứ vô nghĩa. Nó là tiếng nói của thời đại, là vũ khí đấu tranh. Xuân Diệu thẳng thắn khẳng định:
“Tôi thẳng thắn ngợi ca nền chuyên chính!”
Lời kết – Tiếng thơ của thời đại
Vô sản chuyên chính không chỉ là một bài thơ chính trị, mà còn là tiếng lòng của một nhà thơ lớn, một con người đã hiến dâng cả cuộc đời cho cách mạng, cho nhân dân. Bài thơ không chỉ ca ngợi chuyên chính vô sản, mà còn thể hiện sự trăn trở, đau đáu của một người nghệ sĩ trước hiện thực khổ đau của nhân loại.
Xuân Diệu đã cho thấy rằng, thơ ca không chỉ là hoa cỏ, là gió mây, mà còn là ngọn lửa, là vũ khí đấu tranh. Và trong dòng chảy của lịch sử, những vần thơ như thế sẽ luôn sống mãi, bởi nó không chỉ nói về một thời đại, mà còn nói về khát vọng muôn đời của con người: khát vọng về công lý, tự do và hạnh phúc.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý