Cảm nhận bài thơ: Vọng Phu – Huy Thông

Vọng Phu

 

Khi nàng thấy, ra đi, chồng đi mãi,
Bao năm tàn vẫn mãi bặt tăm hơi.
Khi khóc kẻ lên thuyền không trở lại
Đã khô đôi nguồn lệ mấy năm trôi,
Một chiều thu mơ màng và u uất,
Nàng ẵm con lên đỉnh núi trơ vơ
Ngoảnh đầu nhìn nẻo xưa buồm ai khuất
Nàng than cùng sóng bạc, gió mơ hồ;

             *

“Chàng…! Chàng ơi! Sao chàng hờ hững
Để lòng em nặng đựng thương đau?
Tin về nỡ cắt bấy lâu,
Mặc em buồng trống lụa sầu thắt tim!

Hỡi mây im lưng trời nghĩ ngợi!
Gió đìu hiu hỡi! Hỡi sương câm!
Bể mù mịt! Sóng âm thầm
Che người ta nhớ nơi sầm bóng đêm!

Người thu cũ đuôi thuyền ngoảnh lại,
Người phiêu lưu ta mãi đợi chờ,
Bảo ta, non nước thờ ơ!
Bảo ta người ấy bây giờ tận đâu?

Hay duyên mới chàng mơ vui thú
Mà bẵng quên tình cũ, chàng ơi!
Bẵng quên, ở chốn xa vời,
Còn người vợ trẻ cuối trời mỏi trông…?

Hay chân phẫn còn băng theo rõi
Mộng giàu sang càng đuổi càng xa,
Nên chàng không trở lại nhà,
Nơi em ấp hận chiều tà thẳm mơ…?

Ham chi cảnh phồn hoa phú quý,
Với giai nhân thành thị kiêu sa…
Để em tóc nhánh mạ ngà,
Mắt gương mờ sáng, má hoa mờ đào!

Thà em biết, bên dòng Chín Suối,
Chàng nén đau tắm bụi đường trần,
Lửa lòng em cố rập tàn,
Sô gai trĩu quấn tảo tần nuôi con.

Nhưng không! Nhưng không! Chàng vẫn sống,
Để biển mù ngong ngóng em trông…
Trông ven trời thoáng sương hồng
Đợi buồm giương cánh mang chồng về đây!

Dứt lên thuyền, chàng đi biền biệt,
Chẳng cho em được biết tiêu hao!
Nếu tường gót bạn phương nao,
Muôn trùng cũng vượt…, có sao, em liều!

Phòng lạnh lẽo, đêm ngày mong mỏi,
Em không sao chịu nổi nữa rồi!
Em nguyền đứng ngắm chân trời!
Tới khi thấy bóng chàng hồi nơi xưa”

Than xong rồi, bâng khuâng nàng đứng sững
Trên non cao vương chút bóng chiều mơ,
Mặc mây thâm lưng trời treo lơ lửng,
Mặc hơi thu chiều lạnh đìu hiu đưa.

Mặc sóng vỗ, quạ kêu, hàng bần khóc,
Trong sương mù xám ngắt mịt mùng rơi,
Nàng ôm chặt đứa con nằm nheo nhóc
Đăm đăm gương thẳng mắt ngắm chân trời.

Mấy lời than thở đêm xưa,
Thời gian nhắc mãi bây giờ chưa thôi.
Biết bao thế kỷ qua rồi
Nàng còn đứng ngắm chân trời mênh mang!
Ngày nay, lữ khách mơ màng
Nhác trông – chợt thấy bóng nàng ẵm con
Trơ trơ đứng sững đầu non,
Tưởng chừng đá nọ vẫn còn ngậm đau…


8-1934

*

Vọng Phu – Hóa Đá Vì Nỗi Đợi Chờ

Có những nỗi đau không thể gọi tên, có những nỗi nhớ khắc sâu vào lòng người đến mức hóa thành huyền thoại. “Vọng Phu” của Huy Thông là một khúc ca bi thương về sự chờ đợi trong tuyệt vọng, về nỗi đau của một người phụ nữ dành cả cuộc đời đứng bên vách núi, dõi mắt về nơi xa xăm để tìm kiếm hình bóng người chồng đã ra đi. Từng câu chữ trong bài thơ là từng tiếng nấc nghẹn ngào, là những giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống theo năm tháng, để rồi hóa thành đá, thành bất tử.

1. Chờ đợi – Nỗi đau không có điểm dừng

“Khi nàng thấy, ra đi, chồng đi mãi,
Bao năm tàn vẫn mãi bặt tăm hơi.”

Ngay từ những câu thơ đầu, hình ảnh người vợ trẻ đã hiện lên với nỗi đau khôn nguôi. Chồng nàng ra đi, và những tháng năm đằng đẵng trôi qua, tin tức về chàng vẫn biệt tăm. Nàng đã khóc, đã đau, đã cạn kiệt nước mắt, nhưng vẫn chẳng thể nhận lại một lời hồi âm. Một mình nuôi con, một mình đối diện với căn phòng trống trải, nàng sống trong sự giày vò của nhớ thương và hy vọng mong manh.

Rồi vào một chiều thu, giữa không gian u hoài và ảm đạm, nàng bế con lên đỉnh núi, nơi cao nhất để có thể nhìn xa hơn, để mong rằng sẽ thấy bóng dáng con thuyền quen thuộc. Nhưng chẳng có gì ngoài sóng bạc đầu, ngoài gió mơ hồ. Cảnh vật dường như cũng cúi đầu trước nỗi đau của nàng.

2. Lời than xé lòng – Khi trái tim không còn hy vọng

“Chàng…! Chàng ơi! Sao chàng hờ hững
Để lòng em nặng đựng thương đau?”

Tiếng than của nàng vang lên giữa đất trời, như một lời trách móc xót xa. Vì sao chàng lại nhẫn tâm như vậy? Vì sao lại bỏ mặc nàng trong căn phòng lạnh lẽo, để nỗi cô đơn gặm nhấm từng ngày? Nàng gọi chàng trong nỗi khắc khoải, nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng của sương gió, của biển trời xa thẳm.

Nàng tự hỏi:

“Hay duyên mới chàng mơ vui thú
Mà bẵng quên tình cũ, chàng ơi?”

Liệu có phải chàng đã quên nàng, quên đi những ngày tháng hạnh phúc bên nhau? Có phải chàng đang mải mê với những vinh hoa nơi thành thị, bỏ mặc người vợ trẻ vẫn từng ngày mong đợi? Hay chàng đang mải miết theo đuổi giấc mộng giàu sang mà quên mất rằng có một mái nhà đang ngóng chờ chàng trở về?

Nỗi đau của nàng không chỉ là sự xa cách, mà còn là sự hoài nghi, là cảm giác bị bỏ rơi, bị lãng quên. Điều khiến nàng đau đớn hơn cả không phải là cái chết, mà là sự bặt vô âm tín, là cảnh người còn mà không thấy, là chờ đợi mà chẳng bao giờ được hồi đáp.

3. Bi kịch của người phụ nữ – Hy sinh trong im lặng

Người phụ nữ trong bài thơ không chỉ đơn thuần là một người vợ, mà là hình tượng đại diện cho biết bao kiếp hồng nhan trong lịch sử – những người bị số phận đẩy vào cảnh chờ đợi mà không có ngày trở lại. Dù là vì chiến tranh, vì giấc mộng giàu sang, hay vì sự bạc bẽo của con người, họ vẫn mãi đứng đó, vẫn mãi giữ trọn lời thề.

“Thà em biết, bên dòng Chín Suối,
Chàng nén đau tắm bụi đường trần,
Lửa lòng em cố rập tàn,
Sô gai trĩu quấn tảo tần nuôi con.”

Nếu chàng đã chết, nàng có thể chấp nhận. Nếu biết chàng không còn trên cõi đời này, nàng có thể gạt nước mắt, nén đau mà tiếp tục sống. Nhưng sự im lặng của chàng, sự biệt vô âm tín ấy chính là thứ giày vò nàng mỗi ngày, khiến nàng không thể buông bỏ, không thể nguôi ngoai.

Nàng đã đứng đó, ngày qua ngày, năm qua năm. Và cuối cùng, thời gian đã hóa nàng thành đá – một tượng đài vĩnh cửu của tình yêu và nỗi đau.

4. Lời nhắn nhủ của thời gian – Nỗi đau còn mãi

Huy Thông không chỉ viết về một câu chuyện tình bi thương, mà ông còn muốn gửi gắm một thông điệp sâu sắc: sự chờ đợi đôi khi không mang lại kết quả, mà chỉ đem đến nỗi đau. Nàng đã đứng trên đỉnh núi, đã ôm con vào lòng, đã dõi mắt về chân trời cho đến khi hóa đá.

“Mấy lời than thở đêm xưa,
Thời gian nhắc mãi bây giờ chưa thôi.
Biết bao thế kỷ qua rồi
Nàng còn đứng ngắm chân trời mênh mang!”

Thời gian trôi, thế hệ này qua thế hệ khác, nhưng nỗi đau ấy vẫn còn vang vọng. Đứng trước tượng đá Vọng Phu, người đời sau vẫn có thể cảm nhận được nỗi niềm của nàng, vẫn có thể nghe được tiếng khóc thầm lặng giữa sương gió.

Hình ảnh người lữ khách “mơ màng” nhìn lên đỉnh núi, chợt thấy bóng nàng vẫn ẵm con, như một lời nhắc nhở rằng: có những nỗi đau không bao giờ phai mờ, có những chờ đợi không bao giờ có hồi kết.

5. Lời kết – Hóa đá để bất tử với tình yêu

“Vọng Phu” không chỉ đơn thuần là một bài thơ, mà là một bản nhạc buồn về số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ yêu hết lòng, hy sinh trọn vẹn, nhưng lại luôn là người chịu tổn thương nhiều nhất. Bằng ngôn từ giàu cảm xúc và hình ảnh đầy ám ảnh, Huy Thông đã khắc họa một câu chuyện không chỉ của riêng ai, mà là của cả muôn đời.

Người vợ ấy đã hóa đá, nhưng tình yêu của nàng vẫn còn. Nỗi nhớ của nàng vẫn còn. Và câu chuyện của nàng vẫn sẽ được kể mãi, như một biểu tượng của sự chung thủy, của tình yêu không đổi thay, nhưng cũng là một lời nhắn nhủ về nỗi bi thương của những cuộc chờ đợi không có hồi kết.

Đứng trước vách núi, nhìn về phía xa, ta như thấy bóng nàng lặng lẽ giữa trời cao, ánh mắt vẫn hướng về chân trời mịt mù, nơi có người nàng thương nhưng mãi mãi không quay về…

*

Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam

Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.

Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.

Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.

Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *