Cảm nhận bài thơ: Vườn Thuận Vi

Vườn Thuận Vi

 

Một sớm mai xanh thôn Thuận Vi
Trăm vườn, muôn sắc lá đua thi;
Đã xanh ngâu mượt cành chị chít,
Lại biếc dâu tơ nhánh dậy thì.

Lớp lớp phù sa thắm mịn bồi
Vào dâu, dâu trổ lá non tươi.
Tằm ăn dâu mởn say lao đảo
Nhà kén vàng ong, kén bạc ngời.

Cam, quýt thêm na, ổi rộn ràng.
Hái hoa ngâu rực chiếc nong vàng.
Canh khuya chợt thức nghe hoa ngát,
Giấc ngủ như là đã ướp hương.

Nhộng bùi bởi đất sinh dâu mướt,
Vườn tốt nhờ nơi ao vét sâu.
Lối cũ lơ thơ, đường cỏ dại
Biến thành bờ ngâu, thành bờ dâu.

Tiếng kẻng ban mai kén dậy rồi,
Nồi ươm thoăn thoắt những tay ai
Xoã tơ, tơ toả theo guồng cuộn
Lóng lánh như xe ánh mặt trời.

Có dịp nào anh công tác qua
Nên thăm hợp tác xã Trung Hoà.
Thuận Vi cả một vùng xanh biếc,
Trái rộ tằm lên sức của ta.


8-1964

Xã Thuận Vi (trước đây là thôn) ở tỉnh Thái Bình, đất vườn rất tốt, trồng dâu nuôi tằm có thành tích lớn, trồng hoa ngâu và nhiều thứ cây ăn quả.

*

Vườn Thuận Vi – Bản Hòa Ca Xanh Biếc

Có những miền quê, dù chưa từng đặt chân đến, ta vẫn cảm thấy thân thuộc như đã từng sống ở đó, từng hít thở hương thơm từ những vườn cây, từng lắng nghe tiếng lá reo trong nắng mai. Vườn Thuận Vi của Xuân Diệu chính là một nơi như thế – một vùng quê không chỉ xanh tươi cây lá mà còn xanh tươi bởi sức sống, bởi bàn tay lao động, bởi tình yêu của con người với đất đai, với quê hương.

Một Bức Tranh Mùa Xuân Rực Rỡ

Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, Xuân Diệu đã mở ra một bức tranh đầy màu sắc, tràn ngập sức sống:

Một sớm mai xanh thôn Thuận Vi
Trăm vườn, muôn sắc lá đua thi;

Chỉ một câu thơ mà như gói cả mùa xuân vào trong đó. “Một sớm mai xanh” – cái màu xanh ấy không chỉ là màu của lá cây, mà còn là màu của sự tươi mới, của sức sống đang trỗi dậy trên vùng đất Thuận Vi.

Và trong cái nền xanh ấy, những sắc màu khác cũng hòa quyện, đua chen:

Đã xanh ngâu mượt cành chị chít,
Lại biếc dâu tơ nhánh dậy thì.

Những cành dâu non, những tán ngâu xanh mướt, tất cả như đang cựa mình lớn dậy, mang theo nhựa sống căng tràn. Cây lá không chỉ hiện lên với hình dáng mà còn với cả nhịp điệu của nó – một nhịp điệu rạo rực, căng tràn sức trẻ.

Sự Hài Hòa Giữa Thiên Nhiên Và Con Người

Vườn cây xanh tốt ấy không phải tự nhiên mà có. Nó được nuôi dưỡng bởi phù sa, bởi sự bồi đắp âm thầm nhưng bền bỉ của đất trời:

Lớp lớp phù sa thắm mịn bồi
Vào dâu, dâu trổ lá non tươi.

Câu thơ giản dị nhưng ẩn chứa một triết lý sâu sắc: cây có xanh tốt là nhờ đất lành, con người có ấm no là nhờ sự vun đắp của quê hương. Chính sự gắn kết giữa thiên nhiên và con người đã tạo nên một Thuận Vi xanh biếc, trù phú.

Nhộng bùi bởi đất sinh dâu mướt,
Vườn tốt nhờ nơi ao vét sâu.

Một sự thật giản dị nhưng đầy ý nghĩa: đất có màu mỡ là nhờ con người biết chăm chút, ao có nước trong là nhờ bàn tay người vét dọn. Đằng sau câu thơ ấy là hình ảnh những người nông dân tần tảo, cần cù, ngày ngày vun trồng, dựng xây để biến vùng đất này thành một khu vườn trù phú.

Sự Chuyển Mình Của Làng Quê

Không chỉ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên, Vườn Thuận Vi còn là câu chuyện về sự thay đổi của làng quê:

Lối cũ lơ thơ, đường cỏ dại
Biến thành bờ ngâu, thành bờ dâu.

Những con đường xưa cỏ dại mọc hoang giờ đã thành bờ ngâu, bờ dâu xanh tốt. Đó không chỉ là sự thay đổi của cảnh quan mà còn là sự đổi thay của cuộc sống, của con người. Một làng quê không còn lam lũ, nghèo khó mà đang từng ngày vươn lên, căng tràn sức sống.

Hình ảnh những người lao động hiện lên đầy sức mạnh:

Tiếng kẻng ban mai kén dậy rồi,
Nồi ươm thoăn thoắt những tay ai

Câu thơ như một thước phim quay chậm về một buổi sáng lao động: tiếng kẻng vang lên gọi người dân bắt đầu một ngày mới, những bàn tay thoăn thoắt ươm tơ, xe kén. Và hình ảnh ấy được Xuân Diệu nâng lên thành một biểu tượng:

Lóng lánh như xe ánh mặt trời.

Những sợi tơ óng ánh không chỉ là sản phẩm của nghề tằm tang mà còn là biểu tượng của sự cần mẫn, của ánh sáng, của tương lai rạng rỡ mà những con người nơi đây đang dệt nên bằng chính đôi tay mình.

Lời Mời Gọi Đầy Tự Hào

Không chỉ đơn thuần ca ngợi cảnh sắc quê hương, Xuân Diệu còn gửi vào bài thơ một lời mời gọi đầy tự hào:

Có dịp nào anh công tác qua
Nên thăm hợp tác xã Trung Hoà.

Một lời mời giản dị nhưng chứa đựng niềm hân hoan, tự hào về sự đổi thay của quê hương. Thuận Vi không còn chỉ là một vùng đất, mà đã trở thành biểu tượng của sự trù phú, của tinh thần lao động.

Thuận Vi cả một vùng xanh biếc,
Trái rộ tằm lên sức của ta.

Một kết thúc đầy viên mãn: một Thuận Vi xanh biếc, một vùng quê trù phú, nơi cây trái trĩu cành, nơi những nong kén vàng óng, nơi mà sức sống và sự no ấm hiện lên rõ rệt.

Lời Kết

Bài thơ Vườn Thuận Vi không chỉ là một bức tranh quê hương đẹp đẽ mà còn là một khúc ca về sự lao động, về tình yêu và sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên. Dưới ngòi bút của Xuân Diệu, Thuận Vi hiện lên không chỉ xanh tươi, trù phú mà còn ấm áp, đầy sức sống, nơi con người và đất trời hòa quyện vào nhau để tạo nên một bức tranh quê hương rạng rỡ.

Hôm nay, nếu có dịp đặt chân đến Thuận Vi, ta sẽ thấy những vườn dâu xanh ngắt, những nong tằm vàng óng, những con đường không còn cỏ dại mà rợp bóng cây. Và trong từng tán lá, từng sợi tơ, ta như vẫn còn nghe vang vọng đâu đây những vần thơ Xuân Diệu – những vần thơ của tình yêu, của niềm tin vào sức mạnh lao động và vào một tương lai tươi sáng.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *