Cảm nhận bài thơ: Vườn xưa – Anh Thơ

Vườn xưa

 

Kính tặng hương hồn bác tôi

Đây một giàn lan che bóng lan,
Dăm thân tùng trúc đứng nghiêm hàng.
Vài hòn non bộ, nhiều đêm vắng.
Biển cạn đầy trăng, cá đớp vàng.

Và khi vườn chủ tóc như sương
Gậy trúc lang thang dạo khắp vườn.
Là lúc hồn thơ say ý rượu,
Tìm hồn hoa lạc dưới trăng suông.

Rồi cả vườn cây nghe tiếng ngâm,
Nâng cao hồn mộng quyện hương trầm.
Sau khi gót hạc dừng hiên nguyệt,
Chén rượu hoà trăng rót mãi vần.

Nhưng nay lạnh lẽo bóng trăng sang,
Lan héo lòng hoa, trúc võ vàng.
Cá chẳng đùa trăng, trong biển cạn
Vài hòn non bộ đứng cư tang.

Vì chưng vườn chủ tóc như sương,
Gậy trúc chiều qua đã dắt đường
Thơ rượu say về tiên giới ấy,
Vườn xưa để lạnh bóng trăng suông!


In trong tập Xưa.

*

Vườn Xưa – Nỗi Nhớ Một Tâm Hồn Thanh Cao

Có những khu vườn không chỉ là nơi cây cối sinh trưởng, mà còn là chốn lưu giữ một tâm hồn, một cuộc đời. Bài thơ Vườn xưa của Anh Thơ là lời tiễn biệt đầy hoài niệm và kính trọng dành cho người bác quá cố – một con người gắn bó với thiên nhiên, sống thanh tao giữa thơ, rượu và trăng. Không gian khu vườn trong thơ không chỉ đơn thuần là cảnh sắc, mà còn là biểu tượng của một nhân cách cao đẹp, một lối sống thanh đạm nhưng giàu chất thơ.

Ngay từ những câu thơ đầu, tác giả đã phác họa một khu vườn như chốn tiên cảnh:

“Đây một giàn lan che bóng lan,
Dăm thân tùng trúc đứng nghiêm hàng.
Vài hòn non bộ, nhiều đêm vắng.
Biển cạn đầy trăng, cá đớp vàng.”

Giàn lan tỏa bóng, tùng trúc đứng nghiêm, hòn non bộ lặng lẽ giữa những đêm trăng – tất cả tạo nên một không gian tĩnh mịch, mang đậm vẻ đẹp của một khu vườn xưa, nơi hòa quyện giữa thiên nhiên và tâm hồn con người. Đặc biệt, hình ảnh “biển cạn đầy trăng” gợi lên một không gian huyền ảo, nơi ánh trăng như rót tràn mặt nước, hòa lẫn vào làn sóng, khiến những con cá cũng như chơi đùa cùng vầng sáng ấy.

Nhưng khu vườn ấy không chỉ có cảnh vật, mà còn là nơi gắn bó với một con người:

“Và khi vườn chủ tóc như sương
Gậy trúc lang thang dạo khắp vườn.
Là lúc hồn thơ say ý rượu,
Tìm hồn hoa lạc dưới trăng suông.”

Người vườn chủ – người bác của tác giả – hiện lên với dáng vẻ ung dung, mái tóc đã bạc như sương, nhưng tâm hồn vẫn tràn đầy thi vị. Đó là một con người say đắm với thơ ca, với thiên nhiên, với những buổi dạo vườn tìm hoa, và với cả men rượu trong những đêm trăng. Đó là một tâm hồn nghệ sĩ, sống nhẹ nhàng và thảnh thơi giữa cuộc đời.

Những đêm khuya, khi ánh trăng nhuộm bạc cả khu vườn, người ấy lại ngâm thơ, để tiếng ngâm quyện vào hương trầm, để rượu hòa cùng ánh trăng:

“Rồi cả vườn cây nghe tiếng ngâm,
Nâng cao hồn mộng quyện hương trầm.
Sau khi gót hạc dừng hiên nguyệt,
Chén rượu hoà trăng rót mãi vần.”

Những câu thơ này như khắc họa một cảnh tượng đầy thi vị: một bậc tao nhân giữa vườn khuya, nhấp chén rượu dưới trăng, hòa vào thiên nhiên một cách tĩnh lặng mà thâm sâu. Nhưng rồi, thời gian không chờ đợi ai.

Sự chuyển biến đau lòng xuất hiện ở khổ thơ sau:

“Nhưng nay lạnh lẽo bóng trăng sang,
Lan héo lòng hoa, trúc võ vàng.
Cá chẳng đùa trăng, trong biển cạn
Vài hòn non bộ đứng cư tang.”

Khi người vườn chủ đã ra đi, khu vườn trở nên lạnh lẽo, thiếu đi sinh khí ngày nào. Hoa lan héo úa, trúc cũng úa vàng, con cá từng đùa vui cùng ánh trăng giờ đã không còn hứng thú. Ngay cả những hòn non bộ vốn lặng lẽ, nay cũng như đang tiếc thương.

Và rồi, câu thơ cuối khép lại bài thơ bằng một nỗi buồn sâu lắng:

“Vì chưng vườn chủ tóc như sương,
Gậy trúc chiều qua đã dắt đường
Thơ rượu say về tiên giới ấy,
Vườn xưa để lạnh bóng trăng suông!”

Người bác ấy đã ra đi, mang theo cả thơ, cả rượu, cả những đêm ngâm vịnh dưới trăng. Còn lại khu vườn xưa, trống vắng, im lìm, chỉ còn bóng trăng lẻ loi chiếu xuống như chứng nhân cho những ngày tháng đã qua.

Bài thơ không chỉ là một lời tiễn biệt đầy tiếc thương, mà còn là một sự ngưỡng vọng đối với một nhân cách thanh cao. Người vườn chủ ấy không chỉ là một con người, mà còn là biểu tượng của một lối sống thanh nhã, hòa mình vào thiên nhiên, sống với thơ ca và giữ được một tâm hồn tự do giữa đời.

Có lẽ, trong mỗi chúng ta cũng có một “vườn xưa” của riêng mình – nơi gắn bó với những người đã khuất, nơi lưu giữ những ký ức đẹp mà thời gian không thể xóa nhòa. Và mỗi khi ánh trăng soi rọi lên những góc vườn, lên những miền ký ức ấy, lòng ta lại dâng lên một nỗi nhớ khôn nguôi…

*

Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ

Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.

Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.

Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.

Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:

“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(
Chiều xuân)

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *