Xây nhà máy
Trường ca
Mảnh đất ấy, năm xưa giặc chiếm
Làm khu đai trắng, tắt hơi người.
Đồn giặc đêm đêm tuôn hoả pháo,
Rụng đầy mặt đất lửa ma trơi.
Có chăng, sau mỗi trận vây lùng,
Đất rạn đòn tra, rung tiếng thét.
Mùi máu người tanh mấy khúc sông,
Quạ giành thịt rữa bay đen nghẹt.
Giữa lúc quân mình đánh Điện Biên,
Tin vui phối hợp rộn trăm miền,
Nơi này du kích ra tay bẻ
Hàng loạt đồn thù gẫy một đêm.
Gạch đồn nậy lát sân phơi lúa,
Khói thổi cơm xanh những mái nhà.
Tay bầu quấn quít giao tay bí,
Đất tháo xiềng đai, đất nở hoa.
Điệu múa lời ca vang xóm cũ
Trăng suông sáng cả tối hôm rằm
Bến đò ai quạt thơm ngô nướng?
Mái mái chèo khua rối bóng trăng…
*
Mùa xuân Tổ quốc ngày thêm mới,
Cuộc sống ngày thêm bước trưởng thành.
Nghe vang tiếng gọi: xây nhà máy!
Náo nức nghìn phương góp nhiệt tình.
Đất vội đứng lên làm gạch ngói,
Núi rừng cho gỗ đá về theo.
Cát vàng sỏi trắng ngoài sông biển
Xuôi chở vào đây sớm lại chiều.
Nơi đây đã có những bàn tay
Anh bộ đội chiếm đồi A1.
(Từ trong ruột đất vụt bay lên,
Cắm ngọn cờ sao cao chót vót.)
Nơi đây đã có những bàn tay
Chị du kích lăn vào diệt bốt.
(Tuổi xanh cỏ cắt bén tay liềm,
Kháng chiến đầu Tây dao chém ngọt.)
Có chị thợ hồ từng ngoáy cám
Trong nhà địa chủ, nát thời xuân.
Lều xiêu, mẹ ốm, không cơm cháo,
Đùa lúa sân người, cháy bỏng chân.
Có đồng chí công nhân
Cõng máy nghìn tôn lên Việt Bắc,
Mìn bẫy dưới chân, bom chặn đầu,
Sắt thép cứ đi vào bí mật.
Có bác thợ già, thuở trước
Chai tay dựng mãi những ngôi đình.
Hội làng, chiếu nhất đầy hương lý,
Dựa cột, đầu sai, phận bạch đinh.
Có người mẹ trẻ, hồi Tây chiếm,
Giặc giết hai con chết một ngày.
Hầm sâu, việc mật răng không hé,
Bụng chịu giầy đình giẫm truỵ thai.
Có anh Sáu Cần Thơ tập kết,
Tin quê Mỹ – Diệm mấy phen càn.
Đêm nghe tiếng sấm trời nam dội;
Ngỡ tiếng bom gầm, nhói ruột gan.
Có cả bác chuyên gia Trung Quốc,
Tóc phai nghìn dặm tuyết trường chinh.
Ngày ngày thiết kế, quên mưa nắng,
Đêm vẽ sơ đồ trắng mấy canh.
Có ca rẻo cao cùng giới tuyến,
Có nhiều Nam Định, lắm Sơn Tây.
Có cô gái mời trầu chạm ngõ,
Có chàng trai vừa thuộc đường cày…
*
Khắp nơi đổ đến công trường,
Tất cả đêm ngày tấp nập.
Như đàn kiến đất dựng kho lương,
Như tố ong rừng gây bọng mật.
Tay lại chuyền tay,
Bước càng khít bước.
Lối trục, đường lăn đi đã thuộc,
Nền cao, cột lớn đứng hiên ngang.
Vữa nhảy vào quang, quang chạy lên giàn,
Tường bốn mặt hiện ra từng cửa sổ.
Thanh sắt lớn ai bê lên để đó?
Gạch tung cao như đám hội tung còn.
Những tối liên hoan, từng đợt cười giòn,
Bác thợ mộc đóng trò “Vân dại”,
Anh bộ đội độn ngực tròn, giả gái,
Tiễn chồng đi tập kết, bến Tiền Giang,
Anh Sáu, vai chồng, ca vọng cổ hoài lang.
Một buổi, đàn em nhỏ
Hội nhau trồng cây tươi,
Hố đào sâu, em hát,
Cây vững gốc, em cười.
Manh đất vui xây dựng
Bốn bề cây đâm chồi.
*
Thế rồi, thấp thoáng nửa năm qua,
Trải mấy mưa mai, mấy nắng tà,
Mới hôm nào đó, đồn Tây vỡ,
Đã mọc hôm nay những mái nhà.
Cây đã xum xuê, tròn bóng mát,
Lá vàng líu ríu dạo quanh sân.
Nóc cao nhà máy đè mây trắng,
Tiện chốn chim trời tạm nghỉ chân.
Mặt sông lồng lộng, nước trôi xuôi,
Ống khói tuôn mây, nổi hiệu còi.
Nhà máy bắt tay vào sản xuất,
Lễ mừng mở giữa nắng xuân tươi.
Anh Sáu Cần Thơ lên nóc xưởng,
Cờ treo, sóng đỏ, gió reo nhanh.
Trông vời viền núi xa xanh,
Tưởng trông rõ mái nhà mình, phương Nam.
Tưởng chừng người vợ tao khang
Đương nhìn lên, thấy sao vàng, thấy anh.
Tưởng chừng những cuộc đấu tranh
Tại miền Nam đó, có mình, có ta…
Mùa hè 1960
*
“Từ đất cháy thành tiếng còi nhà máy – Bản trường ca của hồi sinh và thống nhất”
Nguyễn Bính, người thơ của những tình quê thấm đẫm khói lam chiều, trong bài “Xây nhà máy” đã viết nên một trường ca mang vóc dáng sử thi của thời đại mới: bài thơ không chỉ là chuyện dựng một công trình, mà là khúc khải hoàn ca về sự sống được hồi sinh từ đổ nát, khát vọng hòa bình bừng dậy từ máu lửa, và hình ảnh non sông thống nhất dần hiện ra từ bàn tay con người.
I. Từ mảnh đất chết chóc…
Khởi đầu của bài thơ là một không gian tang thương:
Mảnh đất ấy, năm xưa giặc chiếm
Làm khu đai trắng, tắt hơi người.
Hình ảnh “đai trắng” – vùng đất mà giặc biến thành hoang mạc sự sống, nơi mà từng “đòn tra rung tiếng thét”, máu loang sông, quạ giành thịt rữa – gợi lại ký ức hãi hùng về một thời quê hương bị xâm lăng và tàn phá.
Trong không gian ấy, người đọc không thể không rùng mình khi tưởng tượng từng vết thương trên đất, từng vết chém trong ký ức của nhân dân:
Đất rạn đòn tra, rung tiếng thét.
Mùi máu người tanh mấy khúc sông,
II. … đến mùa xuân đứng dậy
Từ máu đổ thành lúa chín, từ đồn giặc thành sân phơi lúa, từ tay bầu giao tay bí… thơ Nguyễn Bính dựng lại một kỳ tích nở hoa từ tàn tro chiến tranh.
Gạch đồn nậy lát sân phơi lúa,
Khói thổi cơm xanh những mái nhà.
Cái chuyển mình kỳ diệu này không phải là phép màu, mà đến từ những con người đã từng kháng chiến, từng đau thương, từng nhẫn nhục, từng hiến dâng.
III. Những con người làm nên công trình
Đoạn giữa bài thơ như một bức tranh vĩ đại về những con người dựng xây đất nước – từ khắp mọi miền, từ nhiều quá khứ khác nhau – hội tụ lại trên một công trường mang tên “Tổ quốc”.
Nơi đây đã có những bàn tay
Anh bộ đội chiếm đồi A1…
Có chị thợ hồ từng ngoáy cám…
Có người mẹ trẻ… chịu giầy đình giẫm truỵ thai…
Có cả bác chuyên gia Trung Quốc
Tóc phai nghìn dặm tuyết trường chinh…
Đây không chỉ là bức chân dung của một lớp người – mà là tổng thể của một dân tộc đã đứng dậy từ máu lửa, đưa cuộc kháng chiến đến thành tựu công nghiệp hóa. Câu thơ đi sâu vào từng số phận, từng vết nứt tâm hồn, nhưng cũng làm bừng sáng từng đốm lửa của lòng tin.
IV. Bức tranh đại đoàn kết – khúc ca hành động
Người đọc tưởng như đứng giữa đại công trường, nơi “tay lại chuyền tay, bước càng khít bước”, nơi những người lính, những bác thợ, những đứa trẻ hòa mình trong hành động tập thể. Cả dân tộc, không phân biệt tuổi tác, tầng lớp, vùng miền – đã biến nỗi đau thành sức mạnh xây dựng:
Như đàn kiến đất dựng kho lương,
Như tố ong rừng gây bọng mật.
Khổ thơ kể về buổi diễn “Vân Dại” hay cây xanh do trẻ em trồng trước nhà máy mang hơi ấm rất “Nguyễn Bính” – tinh tế, đời thường, mà đầy hy vọng. Cái lớn lao được gieo từ những hành vi nhỏ, bình dị mà sâu xa.
V. Tiếng còi nhà máy và vọng vọng phương Nam
Và rồi, trái tim bài thơ vỡ òa trong niềm vui chiến thắng của xây dựng:
Nhà máy bắt tay vào sản xuất,
Lễ mừng mở giữa nắng xuân tươi.
Cảnh tượng ấy không chỉ là thành tựu vật chất – nó là hồi chuông khải hoàn, là niềm tin rực rỡ vào tương lai – nhưng trong niềm vui ấy, Nguyễn Bính vẫn để một cánh tay ngoái về phương Nam:
Tưởng trông rõ mái nhà mình, phương Nam.
Tưởng chừng người vợ tao khang
Đương nhìn lên, thấy sao vàng, thấy anh.
Hình ảnh anh Sáu Cần Thơ trên nóc nhà máy, nhìn về Nam, là biểu tượng đẹp đẽ cho nỗi nhớ đất mẹ, cho khát vọng hòa bình, thống nhất – một khát vọng lặng lẽ mà thiêng liêng chảy suốt trường ca này.
Thông điệp gửi lại:
“Xây nhà máy” không chỉ là khúc ca xây dựng – đó là một khúc tráng ca về sự hồi sinh, về bàn tay người gieo lại mùa xuân trên đất chết. Đó cũng là tiếng lòng hướng về miền Nam – phần máu thịt chưa liền da – như một lời hứa thiêng liêng rằng: sẽ có ngày, tiếng còi nhà máy Bắc – sẽ vang tới tận từng mái nhà phương Nam.
Kết luận:
Với giọng thơ giàu nhạc điệu, ngôn từ dung dị mà hào sảng, Nguyễn Bính đã viết nên một bản trường ca không trống kèn – mà âm vang, bền bỉ như chính tinh thần dân tộc: biết đau, biết đứng dậy, biết mơ ước và biến đau thương thành hành động.
“Xây nhà máy” là minh chứng cho một sự thật bất biến:
Không gì mạnh bằng bàn tay người –
Biết biến tro tàn thành sự sống.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý