Xóm làng xanh
Bóng tre trùm bóng chuối,
Hương mít trộn hương cau.
Đặt gánh, nón thay quạt,
Ngực căng tròn áo nâu.
Bờ ruộng mòn mới xoá,
Trâu hợp tác đương cày.
Nước nông giang cuồn cuộn,
Theo nắng chảy về đây.
Gái thôn Đông, thôn Bắc,
Cấy “thửa ruộng miền Nam”.
Mạ cắm theo lời hát,
Chữ nhất thẳng từng hàng.
Giọng kẻng làm rộn rã,
Hồi trống học giòn tan.
Chuỗi cười tươi xướng mạ,
Bài giảng ấm trường làng.
Con đê dài lực lưỡng,
Sừng sững bức trường thành.
Sườn cao um biếc cỏ,
Ôm chặt xóm làng xanh.
Anh tân binh hết phép
Vui bước trên đường đồng.
Lùm cây xa, sẫm bóng,
Mái nhà ga đỏ hồng.
Tháng 9-1959
*-
Xóm làng xanh – Bản hòa ca của đời sống thanh bình và lòng người gắn bó
Trong thơ Nguyễn Bính, làng quê Việt Nam hiện lên không chỉ bằng hình ảnh mà còn bằng hơi thở. Đó là những khung cảnh tưởng như tĩnh lặng, đơn sơ, nhưng lại sống động trong từng nhịp tim của đất, từng làn gió, từng tiếng người lao động. “Xóm làng xanh” là một trong những bài thơ như thế: không lớn tiếng, không bi lụy, chỉ giản dị vẽ nên một bức tranh quê thanh bình – nơi từng nhịp sống gắn chặt với thiên nhiên, với lao động, với khát vọng hòa bình và thống nhất.
Mở đầu bài thơ là một khúc nhạc hương đồng gió nội:
Bóng tre trùm bóng chuối,
Hương mít trộn hương cau.
Chỉ hai câu thơ mà cảm giác như ta đã đứng giữa một xóm làng Việt Nam thực sự: cái mát rượi của tre, cái thắm xanh của chuối, cái thơm nồng đậm đà của mít, của cau… Tất cả tạo nên một không gian ngập tràn sắc – hương – vị, nuôi dưỡng ký ức ngàn đời của người Việt. Và trong không gian ấy, bóng dáng người phụ nữ hiện lên thật gần gũi và khỏe khoắn:
Đặt gánh, nón thay quạt,
Ngực căng tròn áo nâu.
Hình ảnh ấy là một biểu tượng – người phụ nữ nông thôn Việt Nam, lam lũ mà tràn đầy sức sống, hiền hòa mà kiên cường. Câu thơ như tạc nên một bức tượng đồng quê – bình dị và đầy đặn, nâu sẫm như hạt lúa, như đất.
Rồi Nguyễn Bính chuyển từ cảnh sang người, từ tĩnh sang động:
Bờ ruộng mòn mới xoá,
Trâu hợp tác đương cày.
Nước nông giang cuồn cuộn,
Theo nắng chảy về đây.
Cảnh vật không còn lặng lẽ mà bắt đầu chuyển động theo nhịp của thời đại mới: bờ ruộng đã được làm lại, con trâu không còn của riêng mà là “trâu hợp tác”, dòng nước nông giang không còn tù đọng mà “cuồn cuộn theo nắng chảy về đây”. Câu thơ như một dòng chảy: vừa tả thực dòng nước, vừa là ẩn dụ cho sức sống mới đang lan tỏa khắp các xóm làng.
Đặc biệt xúc động là hình ảnh người dân Bắc cấy “thửa ruộng miền Nam”:
Gái thôn Đông, thôn Bắc,
Cấy “thửa ruộng miền Nam”.
Mạ cắm theo lời hát,
Chữ nhất thẳng từng hàng.
Trong thời kỳ đất nước bị chia cắt, những câu thơ này là lời tuyên ngôn lặng thầm mà cảm động: đồng ruộng không có giới tuyến, tình người không có ranh chia. Cấy “thửa ruộng miền Nam” là gieo một lời nguyện thống nhất, là nuôi nấng miền Nam trong trái tim miền Bắc. Mỗi cây mạ là một ước mơ – được cắm xuống bằng lời hát, bằng tình yêu đất, bằng chữ nhất thẳng hàng như niềm tin không lay chuyển.
Đời sống sinh hoạt được khắc họa sinh động qua âm thanh và ánh sáng:
Giọng kẻng làm rộn rã,
Hồi trống học giòn tan.
Chuỗi cười tươi xướng mạ,
Bài giảng ấm trường làng.
Đây là một khúc điệp khúc của cuộc sống: tiếng kẻng gọi việc, trống giục học, tiếng cười vang đồng ruộng, và bài giảng ấm lòng – tất cả hòa chung một điệu nhạc sinh sôi. Nguyễn Bính không tô vẽ gì xa xôi, ông chỉ nhặt những mảnh âm thanh gần gũi nhất để dựng nên một bản giao hưởng của đời sống thanh bình.
Và giữa khung cảnh ấy, hiện lên biểu tượng của sự bảo vệ, chở che:
Con đê dài lực lưỡng,
Sừng sững bức trường thành.
Sườn cao um biếc cỏ,
Ôm chặt xóm làng xanh.
Con đê không chỉ là vật ngăn nước, mà trở thành biểu tượng cho niềm tin, cho vững chãi, cho chở che của cộng đồng. “Xóm làng xanh” được ôm trọn vào một cánh tay vạm vỡ của đất nước, của lòng người.
Kết bài là hình ảnh người chiến sĩ trẻ vừa trở về sau kỳ phép:
Anh tân binh hết phép
Vui bước trên đường đồng.
Lùm cây xa, sẫm bóng,
Mái nhà ga đỏ hồng.
Dù chỉ là bốn câu thơ, nhưng Nguyễn Bính đã gửi gắm bao nhiêu cảm xúc: người lính sau những ngày xa quê lại trở về làng – bước trên con đường đồng thân thuộc, nhìn thấy lùm cây cũ, mái nhà đỏ hồng lên trong hoàng hôn quê. Và như thế, bài thơ khép lại bằng một vòng tròn đầy đủ của sự gắn bó: người đi – quê ở – người về.
“Xóm làng xanh” là một khúc hát yên lành, nhưng vang vọng trong đó là âm điệu của một niềm tin sâu sắc vào tương lai đất nước: niềm tin vào bàn tay người nông dân, vào sự thống nhất, vào đời sống bình dị nhưng đầy sinh khí.
Nguyễn Bính không viết về anh hùng, về chiến công, mà chọn viết về nụ cười cấy lúa, tiếng trống trường làng, và người con gái mặc áo nâu vắt nón quạt chiều. Và chính từ những điều tưởng như nhỏ bé ấy, ông đã tạo nên một thiên anh hùng ca của sự sống, của khát vọng, của một quê hương mãi xanh.
Xóm làng xanh – không chỉ là tên một bài thơ, mà là ước mơ của cả một dân tộc.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý