Cảm nhận bài thơ: Xuân về nhớ cố hương – Nguyễn Bính

Xuân về nhớ cố hương

 

Lầu ai lồng lộng khói hương
Thềm ai xác pháo phô trương màu hồng
Lênh đênh tóc rối cỏ bồng
Chiều ba mươi tết ai không nhớ nhà    
Xứ mình lắm bướm nhiều hoa
Bờ tơ lá lộc tay ngà vin xinh
Mưa nhè nhẹ, nắng thanh thanh
Nên thơ ôi! Cả xứ mình nên thơ!
Hội xuân gió loạn đuôi cờ
Lòng xa vào đám nhặt thưa trống chèo

Xứ này biết mấy cô liêu
Nhớ thương nay sớm mai chiều mà thôi
Xuân về chẳng có hoa tươi
Nắng luôn cả sáu tháng trời không mưa
Ở đây ăn tết buồn chưa?
Rượu bia, hoa giấy và dưa đỏ lòng
Ba ngày tết nóng như nung
Hỏi phong vị ấy là phong vị gì?
Trót đà mang số sinh ly
Bao giờ tôi mới được về cố hương
Xuân về những nhớ cùng thương
Trời ơi! Muôn vạn dậm đường xa xôi!
Chiều ba mươi hết năm rồi
Nhà tôi, riêng một mình tôi vắng nhà
Tôi còn lận đận phương xa
Để ăn cái tết thật là vô duyên.


Sài Gòn, 1944

*

Xuân Về Nhớ Cố Hương – Bài Thơ Của Một Tấm Lòng Lưu Lạc

Có những mùa xuân người ta mong đợi, cũng có những mùa xuân người ta chỉ muốn lặng thầm đi qua như một vết khói. Với Nguyễn Bính, mùa xuân năm 1944 giữa đất Sài Gòn hoa lệ không hề rực rỡ mà lại là một vết cứa vào tâm can – vết cứa mang tên “quê hương”. Bài thơ “Xuân về nhớ cố hương” là tiếng lòng bật lên trong nỗi nhớ, nỗi thương và nỗi buồn không tên của một người xa xứ – người không còn được đón Tết trong căn nhà thân thuộc của mình, người chỉ còn biết ngồi trong gió lạ mà tiếc nhớ từng ngọn gió quê nhà.

Xuân về – không chỉ là mùa, mà là nhắc nhớ

Ngay những câu thơ đầu tiên, Nguyễn Bính đã dựng lên hai thế giới đối lập:

Lầu ai lồng lộng khói hương
Thềm ai xác pháo phô trương màu hồng

Một bên là hình ảnh mùa xuân nơi đất khách, trang trọng mà xa lạ, rực rỡ mà không gần gũi. Một bên là nỗi buốt nhói của người đang lênh đênh, “tóc rối cỏ bồng” giữa chiều ba mươi Tết – khoảnh khắc thiêng liêng nhất của năm, cũng là giây phút cô đơn nhất của những kẻ xa nhà.

Chiều ba mươi tết ai không nhớ nhà

Câu thơ như một nhát gõ khẽ vào lòng, như ánh mắt chạm khẽ giữa chợ đông mà tìm không thấy ai quen. Đó là một nỗi nhớ phổ quát, chân thực và đầy ám ảnh, không chỉ riêng của Nguyễn Bính, mà của biết bao người tha hương giữa lòng đô thị.

Cố hương – một miền ký ức dịu dàng và vĩnh viễn

Trong nỗi nhớ ấy, quê hương hiện lên như một bức tranh cổ tích:

Xứ mình lắm bướm nhiều hoa
Bờ tơ lá lộc tay ngà vin xinh
Mưa nhè nhẹ, nắng thanh thanh
Nên thơ ôi! Cả xứ mình nên thơ!

Đó không phải chỉ là thiên nhiên, mà là cảm giác về một nơi mà mỗi hơi thở đều nhẹ, mỗi bước đi đều êm, một nơi mà người ta có thể sống thật với mình, chậm rãi và tình nghĩa. Từ hình ảnh “lá lộc”, “tay ngà”, đến “gió loạn đuôi cờ”, “trống chèo” … tất cả là dấu hiệu của một mùa xuân đậm đà phong vị dân gian, của những ngày hội làng rộn ràng, nơi cái Tết mang cả hồn quê, cả hồn người.

Đất khách – nơi mùa xuân cũng hóa vô duyên

Trái với quê nhà nên thơ là một Sài Gòn xa lạ:

Xuân về chẳng có hoa tươi
Nắng luôn cả sáu tháng trời không mưa
Rượu bia, hoa giấy và dưa đỏ lòng
Ba ngày tết nóng như nung

Không có hoa đào hoa mai, không có mưa phùn và gió xuân, mùa xuân nơi đây mất đi hồn cốt, chỉ còn lại những thứ mô phỏng vật chất và hình thức. Những thứ ấy không thể chạm vào trái tim người xa xứ. Nguyễn Bính không trách móc, ông chỉ thở dài: “Hỏi phong vị ấy là phong vị gì?” – một câu hỏi nhẹ nhưng đắng như men rượu cũ, đầy sự thất vọng và hụt hẫng.

Một mình giữa xuân, một mình giữa đời

Bài thơ càng về cuối càng thấm đẫm sự cô độc:

Chiều ba mươi hết năm rồi
Nhà tôi, riêng một mình tôi vắng nhà

Không ai vắng mặt trong nhà bằng người đi xa. Không có sự thiếu vắng nào cồn cào bằng nỗi vắng mặt chính mình trong chính tổ ấm của mình. Nguyễn Bính đã sống những ngày Tết “vô duyên”, không phải vì ông ghét Tết, mà vì không có quê hương, không có người thân, Tết không còn là Tết nữa. Đó chỉ là một khung thời gian rỗng, được khoác lên màu đỏ mà không có hơi ấm.

Thông điệp: Quê hương là gốc rễ của mùa xuân, là gốc rễ của con người

Xuân về nhớ cố hương” không chỉ là bài thơ buồn về Tết tha hương. Nó còn là lời nhắc về giá trị thiêng liêng của quê nhà – nơi mùa xuân không chỉ có trong thời tiết mà còn hiện diện trong nếp sống, trong hơi thở, trong ký ức và cả trong tình người.

Nguyễn Bính viết bài thơ này không để than thân, mà để gửi một lời nhắn đầy chân tình cho những ai đang rời xa quê hương: Dù bạn ở đâu, làm gì, nếu còn nhớ về mảnh đất sinh ra mình, nếu còn thấy mùa xuân ở đó đẹp hơn bất cứ nơi nào khác – thì bạn vẫn còn giữ được phần hồn nguyên vẹn của mình.

“Trót đà mang số sinh ly,
Bao giờ tôi mới được về cố hương?”

Câu hỏi ấy – đến tận bây giờ vẫn không có một câu trả lời cụ thể. Nhưng có lẽ, chính nỗi nhớ, chính thơ Nguyễn Bính, đã là một cách để ông trở về quê hương bằng linh hồn, dù thân xác vẫn còn nơi đất khách. Và điều đó, với một người thi sĩ, có lẽ cũng đã là một mùa xuân – mùa xuân trong tim.

*

Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *