Cảm nhận bài thơ: Xuân Việt Nam – Xuân Diệu

Xuân Việt Nam

 

I

Xuân nước Việt khởi một ngày Tháng Tám.
Triều dân gian lên với sóng Hồng Hà.
Lụt cờ đỏ nổi giữa ngày u ám.
Trời sao vàng mọc lúc nước bao la.

Xuân lạ lùng thay! tràn tiếng Quân Ca,
Đến mãnh liệt, vỡ cả bờ sống cũ.
Lòng con trẻ, lòng thanh niên nhựa ứ.
Ai có nghe lòng mới của nông phu?

Họ đứng lên giật lấy núi ngàn thu;
Sông vĩnh viễn, họ ùa vào cướp được.
Sóng dân chúng lên với triều mực nước,
Với triều cờ, triều nhạc: với triều xuân.

Đẩy tan tành một thế kỷ mùa đông,
Xuân Tháng Tám đặc nghìn xuân, bất tận.
Rượu đã đổ trong cành leo, bụi quấn.
Men đã trùm trên nội cỏ, đồng sương.


II

Khắp ngô khoai như có ý lên đường,
Suốt nụ lộc cũng ra chiều hể hả:
Xuân trời đất xây bằng hoa, bằng lá,
Người Việt Nam xây bằng súng, bằng gươm.
Xuân muôn năm lấy sắt lửa mà làm.
Hoa hạnh phúc nở trong lòng đại bác,
Lòng lựu đạn chứa hương thơm ngào ngạt,
Ném đi! bắn đi! gươm giáo chém đi!
Chặt ngang thân loài cướp nước gian phi,
Lũ cỏ dại, bắn vào hàng ngũ chúng!
Xuân sẽ nở khi đứt đầu phản động!
Máu Việt Nam không chen máu tanh hôi.

Binh sĩ ta đem cả sức vô hồi,
Bắt tạo hoá nở nụ cười độ lượng,
Ném tạc đạn cho người vui, vật sướng,
Bắn liên thanh cho đất lặng, trời êm.


III

Xuân đất trời xây bằng bướm, bằng chim,
Người nước Việt dựng bằng xương, bằng máu.
Huyết Đề Thám một khối hồng đau đáu,
Lệ Đình Phùng róc rách xuống đèo cao.
Ngục Côn Lôn, tù Lao Bảo hàn giao,
Dân Nghệ Tĩnh kết lên cùng Quảng Ngãi:
Những suối máu thấm quanh hồn chảy mãi,
Một trăm năm mới đem được xuân về.

Giữ xuân nay, muôn chiến sĩ say mê
Lấy máu tuỷ đổ ra đời bát ngát.
Ngừng tay lại, thấy sắc xuân còn nhạt,
Rót máu thêm, cho đến lúc toàn hồng!


IV

Xuân Việt Nam ngàn năm vẫn chưa xong,
Cuối ba tháng, xuân vẫn còn xây dựng.
Hết ánh sáng của những ngày nắng ửng
Sẽ nhìn cờ mà dựng giữa mùa đông.

Tiến Quân Ca như sóng vỗ bên lòng,
Dào dạt mãi tiếng của giòng máu trẻ…
Việt Nam mới, Việt Nam xuân, Việt Nam cờ đỏ sao vàng diễm lệ!
Từ Lạng Sơn cho đến chót Cà Mau,
Qua Hải Vân, sông núi ước mơ nhau,
Dưới sắc đỏ, đánh bản đàn hợp tấu.
Cán lắp bằng gươm cờ pha với máu.
Súng cùng gươm chung sức máu cùng xương.
Năm Cộng Hoà Thứ Nhất, giữa vinh quang,

Một thế kỷ, đây là Xuân Thứ Nhất.


Tết Độc Lập
1946

*

Xuân Việt Nam – Mùa Xuân Của Máu Lửa Và Tự Do

Nếu có một mùa xuân đặc biệt nhất trong lịch sử dân tộc, thì đó chính là mùa xuân của Cách mạng Tháng Tám – mùa xuân của độc lập, tự do. Xuân Việt Nam của Xuân Diệu không chỉ là bài thơ ngợi ca mùa xuân thiên nhiên, mà còn là bản hùng ca của một dân tộc vừa bước qua xiềng xích nô lệ, đứng lên trong kiêu hãnh và máu lửa để giành lại non sông.

Mùa xuân bùng lên từ căm hờn và khát vọng

Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu khắc họa một mùa xuân không phải chỉ của đất trời, mà là mùa xuân trỗi dậy từ lòng dân, từ ngọn lửa cách mạng đã âm ỉ suốt bao thế hệ:

“Xuân nước Việt khởi một ngày Tháng Tám.
Triều dân gian lên với sóng Hồng Hà.
Lụt cờ đỏ nổi giữa ngày u ám.
Trời sao vàng mọc lúc nước bao la.”

Mùa xuân này không chỉ có sắc hoa rực rỡ mà còn có sắc đỏ của cờ, của máu và của hy vọng. Đó là mùa xuân đầu tiên sau hàng trăm năm đất nước bị xích xiềng, là mùa xuân mà nhân dân vùng lên, giành lại sông núi ngàn thu.

Câu thơ của Xuân Diệu như tiếng trống trận dồn dập, thúc giục lòng người:

“Họ đứng lên giật lấy núi ngàn thu;
Sông vĩnh viễn, họ ùa vào cướp được.”

Cách mạng không còn là một phong trào chính trị, mà đã trở thành sức mạnh của cả một dân tộc, cuốn trôi mọi bóng tối áp bức như cơn lũ cuồng nộ. Đó là mùa xuân xóa tan mùa đông dài của nô lệ, là “Xuân Tháng Tám đặc nghìn xuân, bất tận”.

Sắc xuân của máu và thép

Nếu mùa xuân thiên nhiên được tạo nên bởi hoa lá, thì mùa xuân Việt Nam lại được dựng lên từ máu và thép, từ những tấm thân quật cường ngã xuống vì Tổ quốc:

“Người Việt Nam xây bằng súng, bằng gươm.
Xuân muôn năm lấy sắt lửa mà làm.
Hoa hạnh phúc nở trong lòng đại bác,
Lòng lựu đạn chứa hương thơm ngào ngạt.”

Hình ảnh “lòng lựu đạn chứa hương thơm” mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đó không chỉ là khí phách của người chiến sĩ mà còn là tinh thần hi sinh cao cả, biến những công cụ chiến đấu thành biểu tượng của mùa xuân tự do.

Xuân Diệu không ngần ngại bày tỏ một thái độ quyết liệt:

“Ném đi! bắn đi! gươm giáo chém đi!
Chặt ngang thân loài cướp nước gian phi.”

Sự căm hờn với quân xâm lược được đẩy lên cao độ. Mùa xuân độc lập sẽ chỉ thực sự trọn vẹn khi đất nước hoàn toàn sạch bóng quân thù, khi “Xuân sẽ nở khi đứt đầu phản động!”.

Xuân của ngàn đời – Mùa xuân của nước Việt mới

Không chỉ dừng lại ở chiến thắng, Xuân Diệu còn mở ra một viễn cảnh của một mùa xuân vĩnh cửu – mùa xuân của một nước Việt Nam hoàn toàn tự do, trọn vẹn và trường tồn:

“Xuân Việt Nam ngàn năm vẫn chưa xong,
Cuối ba tháng, xuân vẫn còn xây dựng.”

Mùa xuân này không chỉ có trong những ngày thắng lợi, mà sẽ còn mãi trong công cuộc xây dựng đất nước, trong tiếng hô vang của những người lính, trong những bước chân rộn ràng của thế hệ mai sau.

“Việt Nam mới, Việt Nam xuân, Việt Nam cờ đỏ
sao vàng diễm lệ!”

Đây không chỉ là niềm vui chiến thắng, mà còn là niềm tin vào một tương lai rực rỡ. Xuân Diệu đã gọi mùa xuân này là “Xuân Thứ Nhất”, bởi lẽ đó là mùa xuân đầu tiên của một nước Việt Nam hoàn toàn tự chủ, mở ra một thế kỷ huy hoàng.

Lời kết

Xuân Việt Nam không chỉ là một bài thơ, mà còn là một bản tráng ca lịch sử, vang vọng tinh thần dân tộc kiêu hãnh. Từ những câu thơ rực lửa của Xuân Diệu, ta cảm nhận được sự hào hùng của mùa xuân cách mạng, sự hi sinh cao cả của biết bao thế hệ, và quan trọng nhất, ta thấy được ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam – một dân tộc đã đứng lên và quyết không bao giờ cúi đầu trước kẻ thù.

Mùa xuân ấy không chỉ là mùa xuân của năm 1946, mà mãi mãi là mùa xuân của mọi thời đại – mùa xuân của khát vọng, của đấu tranh và của chiến thắng.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *