Cảm nhận về bài thơ: Cái thai hoang – Trần Huyền Trân

Cái thai hoang

Tặng bà mẹ Việt Nam

Ới hỡi đứa con không có tên
Nằm tròn xác bụng mẹ vô duyên
Con lên mầm sống trong lòng chết
Bởi mẹ con là một gái đêm.

Người mẹ đi hoang kiếp ái tình
Đời còn ai nghĩ chuyện khai sinh
Cho con hạt máu rơi vơ vất
Đang cựa trong thai kết lấy hình.

Con sẽ ra đời con của ai?
Ngoài này đang lắm bước chông gai
Gì nuôi cơn đói lòng dao cắt
Gì đắp che cơn rét buốt giời?

Thuế sống rồi con gánh nặng nề
Rồi con viết mướn hay may thuê
Về đâu nương náu đi đâu thoát
Hay sớm đi hoang tối ngủ hè.

Con sẽ dùng chi đôi cánh tay
Dùng chi cho thoả chí lòng say
Dùng chi cho thoả cánh hồn bay
Dùng chi dùng chi thời loạn này?

Con sẽ dùng chi hay sẽ giam
Thân làm tôi mọn cửa giàu sang
Lòng vào quên lãng của thời gian
Đời vào bóng tối của lầm than?

Rồi con cười khóc với ai đây
Khói lửa đang cơn thế sự này
Khắp cõi cỏ hoa đang nhớn nhác
Đêm mù đang loạn gió Đông Tây.

Nào khác chi đời mẹ của con
Ép khuôn cười khóc để người buôn
Một đêm chung chạ bao hơi hướm
Đến rạng mai ngày nát phấn son.

Mạch sống chan hoà dưới đất sâu
Hỏi đời đất cát: Mẹ con đâu?
Nhà hoang lưu lạc thân hoang đấy
Bán phút vui cho cả giấc sầu.

Cũng khác gì ta giận hoá say
Gối đầu lên bụng mẹ con đây
Bút nghiên đánh đĩ mòn thân thế
Giờ viết ru con khúc hát này.

Ta đã đi qua thế giới mù
Đất trời tao loạn tựa hoang vu
Muôn hồn bay bổng không còn cánh
Cả chuyện yêu đương cũng hoá thù.

Muốn rẫy cho bằng khắp bất công
Cho hoa thêm sắc lúa thêm đòng
Cho tình giao cả muôn thân lại
Làm một thân – Trong một tấm lòng.

Nhưng trong con với cả ngoài kia
Khói lửa thanh bình hoá loạn ly
Tâm sự dưới trời sao động mãi
Đời hoang lộng gió lấy gì che?

Tuổi sạm ba mươi dở khóc cười
Đời nhiều cám dỗ lắm con ơi!
Lợi danh một thoáng men như rượu
Một thoáng lên môi chếnh choáng rồi.

Thôi nói làm chi căm hận ta
Đủ ngày gọi cửa mẹ con ra
Mẹ con một kiếp vô thừa nhận
Con cứ tìm ta: con với cha.

Rồi lớn lên con mở mắt nhìn
Khóc cùng bách tính sống như đêm
Nhưng không! Đừng khóc! Thân gân cốt!
Ta bậc thang đời
Con giẫm lên!


Dưới gót Phát xít Nhật 1942

*

Tiếng Khóc Giữa Đêm Đen – Nỗi Đau Của Một Kiếp Người

Trần Huyền Trân, với trái tim nhân văn và tấm lòng trĩu nặng những suy tư, đã để lại cho đời nhiều tác phẩm mang nỗi đau thế sự, những vần thơ như tiếng khóc xé lòng giữa thời loạn lạc. “Cái thai hoang” không chỉ là một bài thơ, mà còn là lời ai oán, tiếng kêu bi thương của một sinh linh chưa kịp chào đời, của một kiếp người bị vùi dập ngay từ khi chưa mở mắt.

Bài thơ viết vào năm 1942, dưới gót giày xâm lược của phát xít Nhật, khi cả dân tộc chìm trong đói khổ, lầm than và bạo lực. Nhưng sâu xa hơn, tác phẩm không chỉ nói về nỗi đau của một con người, mà còn là một tiếng nói đầy chua xót về sự bất công, thân phận người phụ nữ, số phận những đứa trẻ không được quyền lựa chọn cuộc đời mình.

Một kiếp người chưa kịp hình thành đã chịu oan nghiệt

Ới hỡi đứa con không có tên
Nằm tròn xác bụng mẹ vô duyên
Con lên mầm sống trong lòng chết
Bởi mẹ con là một gái đêm.

Ngay từ những câu thơ đầu, hình ảnh đứa bé “không có tên” đã khiến lòng ta đau nhói. Một sinh linh đang cựa quậy trong bụng mẹ, nhưng đã bị cả xã hội chối bỏ ngay từ khi chưa cất tiếng khóc đầu tiên. Người mẹ mang thai không phải trong tình yêu, mà trong nỗi buồn, sự tủi nhục của một phận đời trôi dạt – một “gái đêm”, một người phụ nữ bị xã hội khinh miệt, coi rẻ.

Đứa con “lên mầm sống trong lòng chết”, bởi ngay từ khi hình thành, nó đã phải chịu sự ruồng bỏ. Không ai chào đón nó đến với cuộc đời này, không ai mong đợi sự xuất hiện của nó.

Người mẹ đi hoang kiếp ái tình
Đời còn ai nghĩ chuyện khai sinh

Mẹ nó không có danh phận, vậy ai sẽ công nhận sự tồn tại của nó? Đời có cần một đứa trẻ không cha, không mẹ theo đúng nghĩa, sinh ra giữa bão tố chiến tranh, đói khát và bạo tàn?

Thế giới ngoài kia – đầy rẫy đau thương và bất công

Con sẽ ra đời con của ai?
Ngoài này đang lắm bước chông gai
Gì nuôi cơn đói lòng dao cắt
Gì đắp che cơn rét buốt giời?

Sinh ra giữa thời tao loạn, đứa bé sẽ có gì để bám víu mà sống? Cái đói, cái rét, cái bất công của xã hội đã trở thành những bóng ma đè nặng lên kiếp người, nhất là với những kẻ thấp cổ bé họng, không nơi nương tựa. Không ai trao cho nó tình thương, mà chỉ có những bước chông gai, những vết dao cắt vào lòng.

Không chỉ là cái nghèo vật chất, cái nghèo tinh thần còn đáng sợ hơn:

Con sẽ dùng chi đôi cánh tay
Dùng chi cho thoả chí lòng say
Dùng chi cho thoả cánh hồn bay
Dùng chi dùng chi thời loạn này?

Đứa trẻ có thể có đôi tay, có thể có một trái tim khát khao, nhưng trong một xã hội không lối thoát, có đôi cánh nhưng không thể bay, thì nó còn biết dùng gì để sống? Một cuộc đời không có tương lai, không có tự do, không có gì để hy vọng.

Người mẹ – thân phận bị chà đạp trong xã hội

Nào khác chi đời mẹ của con
Ép khuôn cười khóc để người buôn
Một đêm chung chạ bao hơi hướm
Đến rạng mai ngày nát phấn son.

Mẹ đứa bé là ai? Một gái điếm, một người phụ nữ không còn quyền làm chủ chính mình, một thân phận bị xã hội trà đạp, bán rẻ nhân phẩm để đổi lấy chút hơi ấm mong manh. Những giọt nước mắt của bà không thể rơi, bởi bà buộc phải cười, phải đẹp, phải chiều lòng người. Nhưng đến khi màn đêm trôi qua, “nát phấn son”, chỉ còn lại một cái xác không hồn.

Đó không chỉ là câu chuyện của một người đàn bà, mà còn là câu chuyện của cả một xã hội bị bức bách đến tận cùng, nơi con người phải bán đi thân xác, nhân phẩm để tồn tại.

Tiếng khóc của đứa trẻ – lời kêu cứu của nhân loại

Rồi lớn lên con mở mắt nhìn
Khóc cùng bách tính sống như đêm
Nhưng không! Đừng khóc! Thân gân cốt!
Ta bậc thang đời – Con giẫm lên!

Đứa trẻ rồi cũng sẽ chào đời, rồi cũng sẽ lớn lên giữa xã hội mù mịt khói lửa, giữa những con người “sống như đêm”, không ánh sáng, không hy vọng. Nhưng nhà thơ không muốn đứa trẻ khóc, không muốn nó đầu hàng số phận.

Thay vì buông xuôi, thay vì trở thành một kẻ bị xã hội vùi dập, nó phải đứng lên! Phải bước đi, phải dẫm lên cả đau thương để tìm một con đường.

Câu thơ cuối cùng mạnh mẽ như một lời tuyên chiến, không chỉ với cá nhân đứa trẻ, mà còn với cả một thế hệ bị vùi dập, một dân tộc bị áp bức.

Lời kết – một bài thơ đầy ám ảnh và sự thức tỉnh

“Cái thai hoang” không chỉ là một bài thơ về số phận một con người, mà là bức tranh đau đớn của một xã hội bất công, của một đất nước bị giày xéo bởi chiến tranh, bởi những định kiến khắc nghiệt.

Đứa trẻ chưa chào đời nhưng đã mang sẵn trên mình gánh nặng của một kiếp người, đã bị ruồng bỏ, bị xem thường. Nhưng trong bóng tối của sự tuyệt vọng ấy, Trần Huyền Trân vẫn để lại một tia sáng – một lời kêu gọi đứng lên, một niềm tin vào sức mạnh của những con người bị áp bức.

Bài thơ không chỉ nói về nỗi đau, mà còn là sự thức tỉnh, rằng chúng ta không thể để những kiếp người cứ mãi bị vùi dập, không thể để những thân phận bị chối bỏ ngay từ khi chưa kịp sống.

Giữa một thế giới mù mịt, đứa trẻ ấy, và cả chúng ta, phải tự bước đi, phải dẫm lên đau thương để tìm lấy ánh sáng cho chính mình.

*

Trần Huyền Trân – Nhà thơ, nhà hoạt động sân khấu tài hoa

Trần Huyền Trân (1913-1989), tên thật là Trần Đình Kim, là một nhà thơ và nhà hoạt động sân khấu xuất sắc của Việt Nam. Ông không chỉ ghi dấu ấn sâu đậm trong phong trào Thơ mới với những vần thơ đầy trăn trở và suy tư, mà còn có những đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thống, đặc biệt là chèo.

Bắt đầu sáng tác từ năm 20 tuổi, thơ ông mang màu sắc tự sự, hoài niệm, phản ánh những nỗi niềm lữ khách cô độc, trăn trở về thân phận con người và thời cuộc. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như Mười năm, Độc hành ca, Uống rượu với Tản Đà, Mưa đêm lều vó

Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, hoạt động trong lĩnh vực sân khấu và dành trọn tâm huyết để gìn giữ nghệ thuật chèo. Ông là một trong những người sáng lập nhóm chèo Cổ Phong, sưu tầm và chỉnh lý nhiều tích chèo cổ nổi tiếng như Xúy Vân giả dại, Quan Âm Thị Kính…, góp phần gìn giữ tinh hoa sân khấu dân gian Việt Nam.

Di sản nghệ thuật của Trần Huyền Trân vô cùng phong phú, trải dài trên nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, chèo. Một số tác phẩm nổi bật gồm: Thơ: Mười năm, Độc hành ca, Mưa đêm lều vóTiểu thuyết, truyện ngắn: Tấm lòng người kỹ nữ (1941), Người ngàn thu cũ (1942), Sau ánh sáng (1940)Kịch, chèo: Lên đường, Tú Uyên Giáng Kiều, Lý Thường Kiệt, Hoàng Văn Thụ, Lửa Hà Nội

Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những cống hiến to lớn đối với văn hóa Việt Nam.

Cuộc đời của Trần Huyền Trân là sự giao thoa giữa thi ca và sân khấu, giữa trữ tình và chính luận, để lại một di sản quý giá cho hậu thế.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *