Cảm nhận về bài thơ: Chúng tử tế mẫu văn – Nguyễn Đình Chiểu

Chúng tử tế mẫu văn

Hỡi ôi!
Dấu hạc xa miền;
Tiếng quyên não tức.

Sách nói hoa phút bay thời nước cũng chảy, đổi dời theo phận, máy trời đất khéo xoay;
Ai rằng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, ngơ ngác nỗi mình, tình mẹ con vội đứt.

Nhớ linh xưa:
Trọn đạo tam tòng;
Giữ phần tứ đức.

Ở ruộng nương theo nghề ruộng, dư lúa dư tiền;
Lấy chồng lo việc nhà chồng, hết lòng hết sức.

Khi tuổi trẻ cười cay nói đắng, mấy lần sinh sản, đám dây dưa rậm rạp trước sân;
Lối mình già đứt thúng vỡ chình, chút phận quả sương, chiếu thuyền bách linh đình giữa vực.

Ngàn muôn việc nhọc nhằn đã lắm nỗi, nhắm bề ăn ở ước ngỡ lâu còn;
Bẩy mươi năm sung sướng đã mấy hồi, coi chứng bịnh đau ai dè vội mất.

Hốt thuốc thương hàm hay lắm, thầy Hương có thầy ba cũng có, trên giường thiếp thiếp, lẽ hơn thua chưa trối lại vài lời;
Nghe tin báo bổ trông hoài, con trai xa con gái cũng xa, hơi thở chừng chừng, lòng thương nhớ thẩy đều trong một giấc.

Những tưởng mất cha còn mẹ, lúc nghiêng nghèo cho trẻ đặng nhở hơi;
Há đành bỏ cháu giã con đi, cơn ly loạn sao già đành nhắm mắt.

Nào thủa trước miệng nhai cơm, lưỡi lừa cá chắt chiu bé lớn, đều nuôi cho nên vóc nên vai;
Đến bây giờ đầu đội vải, lưng vấn rơm, kêu khóc trong ngoài, biết đâu đặng thấy mày thấy mặt.

Cám là cám ba năm bồng ẵm, công so bốn bể chứa đầy;
Thương là thương mười tháng cưu mang, ơn vì năm non đè chặt. Nghĩ lại:

Nhau rún còn chôn làng Long Đức, Mẹ về đâu mà lá cỏ ngọn cây rầu rầu;
Xương thịt đành gửi đất Thanh Ba mẹ về đâu mà tiếng gió tiếng trăng vặc vặc.

Cậu còn đó, dì còn đó, bà con bên ngoại đều còn đó, mẹ đi đâu mà nhà sau cửa trước quạnh hiu;
Chú ở đây, cô ở đây, họ hàng bên nội cũng ở đây, mẹ đi đâu mà chiếu trải giường thờ lạnh ngắt.

Cháu nội có, cháu ngoại có, bầy chát cũng có, hết trông bà miếng ngon miếng ngọt dành cho;
Dâu lớn kia, dâu nhỏ kia, mấy rể còn kia, hết trông mẹ bề dại bề khôn vẻ nhắc.

Muốn tron thảo dâng cơm dâng nước, ôi mẹ ôi rày còn chi nữa của sắm mà nuôi;
Những trông khi nương cửa nương nhà, ý cha chả nói tới chừng nào ruột đau như cắt.

Đội mũ mẫn than thân là gái, lấy chi đền chín chữ cù lao;
Chống gậy vông tủi phận là trai, lấy chi trả một câu võng cực.

Đã biết không trở lại, âm dương hai ngả, mẹ lìa con vọi vọi chín tầng trời;
Phần thương mất cũng như còn, hiếu kính một lòng, con xa mẹ sùn sùn ba thước đất.

Sống gặp nhà nghèo;
Thác nhằm buổi giặc.

Mơ màng phách quế lúc năm canh;
Thấp thoáng hồn hoa cơn sáu khắc.

Từ đây rồi phận trai đứa theo làng đứa theo lính, bơ vơ non Dĩ sương tản khói tan;
Từ rồi đây phận gái đứa theo chồng đứa theo con, vắng vẻ nhà huyên đèn lờ hương tắt.

Ba câu điện tửu, gọi là bầy nghĩa báo thân;
Một tiệp sơ ngu, ngõ đặng nhờ ơn âm chất.

Hỡi ôi thương thay!
Có linh xin hưởng!

(Bài này được chép trong một tập sách Hán Nôm do Phòng Bảo tồn bảo tàng Sở Văn hoá – Thông tin tỉnh Long An sưu tầm được, Cao Tự Thanh phiên âm và đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 2 năm 1988. Tiêu đề nghĩa là bài văn tế mẹ của các con.)

*

Tiếng Khóc Trong Gió – Lời Tiễn Biệt Người Mẹ

Có những mất mát không gì có thể bù đắp được, có những nỗi đau không lời nào diễn tả cho trọn vẹn. Trong bài Chúng tử tế mẫu văn – bài văn tế mẹ của các con, Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những vần điếu văn đầy đau thương và xót xa, tiễn biệt người mẹ đã khuất. Những câu chữ không chỉ là lời thương tiếc của những người con mất mẹ, mà còn là tiếng lòng lay động nhân gian, khắc sâu tình mẫu tử thiêng liêng trong trái tim mỗi người.

Nỗi Đau Ly Biệt – Mất Mẹ, Mất Cả Một Bầu Trời

“Hỡi ôi!
Dấu hạc xa miền;
Tiếng quyên não tức.”

Chỉ với hai câu mở đầu, Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ lên một khung cảnh tang tóc, não nề. Hình ảnh “dấu hạc xa miền” gợi lên sự chia xa vĩnh viễn, “tiếng quyên não tức” khắc họa nỗi đau đớn khôn cùng. Mẹ ra đi, để lại những đứa con bơ vơ giữa dòng đời, như chim lạc tổ, như bầy én mất phương hướng trong cơn bão tố.

“Ai rằng cây muốn lặng mà gió chẳng đừng,
Ngơ ngác nỗi mình, tình mẹ con vội đứt.”

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng – nỗi đau khi mất mẹ không chỉ là quy luật sinh tử, mà còn là sự trớ trêu của số phận. Những người con chưa kịp đền đáp, chưa kịp báo hiếu trọn vẹn, mẹ đã vội rời xa. Còn gì đau đớn hơn khi tình mẫu tử chưa kịp tròn vẹn đã phải chia lìa?

Người Mẹ Cả Đời Hy Sinh – Một Kiếp Người Chỉ Biết Cho Đi

“Nhớ linh xưa:
Trọn đạo tam tòng;
Giữ phần tứ đức.”

Người mẹ ấy không chỉ là bậc mẫu thân hiền hậu, mà còn là người phụ nữ điển hình của đạo lý xưa. Cả đời giữ tròn công dung ngôn hạnh, sống vì chồng, vì con, tận tụy không một lời oán than.

“Ở ruộng nương theo nghề ruộng, dư lúa dư tiền;
Lấy chồng lo việc nhà chồng, hết lòng hết sức.”

Mẹ tảo tần, lam lũ, lo cho gia đình từ khi còn xuân sắc đến lúc tuổi già xế bóng. Làm lụng vất vả để con có miếng cơm, manh áo. Tận tụy lo cho chồng, cho con, không giữ lại gì cho riêng mình. Cả cuộc đời là một chuỗi ngày nhọc nhằn, nhưng mẹ chưa từng than trách, chưa từng nghĩ đến bản thân.

Vậy mà…

“Ngàn muôn việc nhọc nhằn đã lắm nỗi,
Nhắm bề ăn ở ước ngỡ lâu còn;
Bảy mươi năm sung sướng đã mấy hồi,
Coi chứng bịnh đau ai dè vội mất.”

Bảy mươi năm cuộc đời, nhưng những ngày an vui chẳng được bao nhiêu. Cả một đời lo toan, khi những người con mong mẹ có thể tận hưởng chút an nhàn, thì mẹ lại ra đi. Chẳng kịp dặn dò, chẳng kịp trối lại lời nào.

Tiếng Khóc Con Thét Gào Trong Đêm Vắng

“Cám là cám ba năm bồng ẵm, công so bốn bể chứa đầy;
Thương là thương mười tháng cưu mang, ơn vì năm non đè chặt.”

Những người con khóc thương, nhớ lại bao ngày mẹ đã nhọc nhằn nuôi nấng. Mười tháng cưu mang, ba năm bồng bế, năm tháng hy sinh vô bờ bến. Làm sao có thể đong đếm hết được công lao ấy?

“Nhau rún còn chôn làng Long Đức,
Mẹ về đâu mà lá cỏ ngọn cây rầu rầu;
Xương thịt đành gửi đất Thanh Ba,
Mẹ về đâu mà tiếng gió tiếng trăng vặc vặc.”

Hình ảnh thiên nhiên cũng nhuốm màu tang tóc. Cỏ cây rầu rĩ, gió trăng lạnh lẽo, vạn vật như cùng khóc thương trước sự ra đi của mẹ. Lời văn không chỉ tả cảnh, mà còn thể hiện nỗi đau sâu thẳm trong lòng những người con.

“Cháu nội có, cháu ngoại có, bầy chắt cũng có,
Hết trông bà miếng ngon miếng ngọt dành cho.”

Mẹ không chỉ là mẹ của một người, mà còn là bà, là cụ, là người giữ lửa cho cả một gia đình. Từ nay, những bữa cơm sum vầy sẽ thiếu đi bóng dáng mẹ, thiếu đi bàn tay tần tảo chăm chút.

Mất Mẹ – Cả Gia Đình Mất Đi Một Chỗ Dựa

“Từ đây rồi phận trai đứa theo làng đứa theo lính,
Bơ vơ non Dĩ sương tản khói tan;
Từ rồi đây phận gái đứa theo chồng đứa theo con,
Vắng vẻ nhà huyên đèn lờ hương tắt.”

Mẹ mất rồi, gia đình cũng như tan tác. Các con mỗi người một nơi, ngôi nhà từng ấm áp tình mẹ giờ trở nên lạnh lẽo, quạnh hiu. Một gia đình từng sum vầy, nay chỉ còn lại sự trống vắng, hoang tàn.

Lời Nhắn Gửi – Tấm Lòng Hiếu Kính Còn Mãi

“Ba câu điện tửu, gọi là bầy nghĩa báo thân;
Một tiệp sơ ngu, ngõ đặng nhờ ơn âm chất.”

Dù mẹ đã khuất, nhưng tấm lòng hiếu kính của những người con vẫn còn đó. Ba chén rượu tiễn biệt, vài lời nhắn gửi nơi cõi âm, đó là tất cả những gì các con có thể làm để tỏ lòng thương nhớ.

Bài Chúng tử tế mẫu văn không chỉ là một bài văn tế mẹ, mà còn là tiếng lòng chung của bao thế hệ con cái dành cho đấng sinh thành. Qua những câu chữ đầy cảm xúc, Nguyễn Đình Chiểu đã khiến bất kỳ ai đọc bài văn này cũng phải chạnh lòng, phải nhớ về người mẹ của mình.

Dẫu biết sinh tử là quy luật, nhưng mất mẹ là một nỗi đau không gì có thể khỏa lấp. Và hơn hết, bài văn này nhắc nhở chúng ta một điều: khi mẹ còn trên đời, hãy yêu thương, hãy hiếu kính, đừng để khi mất đi rồi mới ngậm ngùi tiếc nuối.

*

Nguyễn Đình Chiểu (1822–1888): Nhà thơ lớn, Danh nhân văn hóa thế giới

Nguyễn Đình Chiểu, tục gọi là cụ Đồ Chiểu, là một nhà thơ yêu nước tiêu biểu của Nam Bộ trong thế kỷ 19. Ông sinh ngày 1/7/1822 tại Gia Định (nay thuộc TP.HCM) trong một gia đình nhà nho. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến cố, từ mất mẹ, mù lòa đến cảnh nước mất nhà tan, nhưng ông vẫn giữ vững đạo đức và lòng yêu nước.

Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, và Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca. Thơ văn của ông thể hiện quan niệm “văn dĩ tải đạo,” luôn hướng tới đề cao chính nghĩa, lòng yêu nước và phẩm chất đạo đức.

Với những đóng góp xuất sắc cho văn hóa và tinh thần dân tộc, ngày 24/11/2021, ông được UNESCO vinh danh là Danh nhân Văn hóa Thế giới. Hiện khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại Bến Tre là di tích quốc gia đặc biệt, trở thành điểm đến tri ân của nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *