Cảm nhận về bài thơ: Điếu Phan Công Tòng (bài 3) – Nguyễn Đình Chiểu

Điếu Phan Công Tòng (bài 3)

Thương thay! Tạo vật khuấy người ta,
Năm đổi làm Tây, chính lại tà.
Trống nghĩa bảo an theo sấm rạp,
Cờ thù công tử guộng mây qua.
Én vào nhà khác toan nào kịp,
Hươu thác tay ai vọi hỡi xa!
Trong số nên hư từng trước mắt,
Người ôi! trời vậy tính sao ra.

*

Nỗi Xót Xa Trước Biến Cố Thời Cuộc

Trong dòng chảy lịch sử đầy biến động của dân tộc Việt Nam, có biết bao bậc anh hùng đã đứng lên chiến đấu vì chính nghĩa, vì quê hương. Phan Ngọc Tòng là một trong những con người như thế, một người thầy giáo làng nhưng mang trong mình tấm lòng trung nghĩa, quyết không khuất phục trước giặc ngoại xâm. Bài thơ Điếu Phan Công Tòng (bài 03) của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là lời tiễn biệt một vị anh hùng, mà còn là tiếng than đau xót trước những biến đổi nghiệt ngã của thời cuộc.

Thời thế đảo điên – Chính nghĩa thành gian tà

“Thương thay! Tạo vật khuấy người ta,
Năm đổi làm Tây, chính lại tà.”

Câu thơ mở đầu đã thể hiện sự xót xa của Nguyễn Đình Chiểu trước cảnh đất nước đổi thay. “Tạo vật khuấy người ta” – thiên nhiên vốn vô tri, nhưng dòng chảy thời cuộc lại cuốn con người vào những biến cố đau thương. Bi kịch lớn nhất là khi “năm đổi làm Tây, chính lại tà” – những giá trị vốn dĩ ngay thẳng lại bị đảo lộn, chính nghĩa bị vùi dập, còn cường quyền lại lên ngôi.

Câu thơ không chỉ phản ánh sự kiện thực dân Pháp xâm lược nước ta, mà còn là một lời oán than về thời thế: Khi quân thù tràn đến, lòng người cũng dần đổi thay, những kẻ phản bội, xu nịnh giặc ngày càng nhiều, còn những bậc trung nghĩa lại chịu nhiều đau thương, mất mát.

Chiến bại không phải vì thiếu dũng khí, mà vì thế nước đã suy

“Trống nghĩa bảo an theo sấm rạp,
Cờ thù công tử guộng mây qua.”

Hình ảnh “trống nghĩa bảo an” – biểu tượng của lực lượng kháng chiến, giờ đây bị những tiếng “sấm rạp” (ám chỉ vũ khí của giặc) nhấn chìm. Đó là một sự thật đau lòng: Nghĩa quân dù có chí khí đến đâu cũng khó lòng chống lại một thế lực quá mạnh.

Trong khi đó, “cờ thù công tử guộng mây qua” – quân giặc tựa như cơn bão lớn cuốn phăng đi tất cả, nhanh chóng chiếm đoạt non sông. Hình ảnh “guộng mây” gợi lên sự ngang tàng, tàn bạo của giặc, nhưng đồng thời cũng ẩn chứa một sự bất lực của tác giả trước dòng chảy khắc nghiệt của lịch sử.

Xót xa cho vận nước đổi thay

“Én vào nhà khác toan nào kịp,
Hươu thác tay ai vọi hỡi xa!”

Hai câu thơ sử dụng điển cố sâu sắc để diễn tả nỗi tiếc thương. “Én vào nhà khác” nhắc đến cảnh đổi thay thời cuộc, khi triều đại cũ sụp đổ, quyền lực rơi vào tay kẻ khác. Nguyễn Đình Chiểu mượn hình ảnh này để nói về sự xâm lược của thực dân Pháp, khi đất nước ta bị cưỡng đoạt, mất đi quyền tự chủ.

“Hươu thác tay ai vọi hỡi xa” lại càng bi thương hơn. “Con hươu” tượng trưng cho vận mệnh quốc gia, nhưng giờ đây lại không biết sẽ rơi vào tay ai. Đất nước đang lâm nguy, người anh hùng đã ngã xuống, còn tương lai thì mịt mù, không ai có thể đoán định được.

Câu hỏi đau đáu về thời cuộc

“Trong số nên hư từng trước mắt,
Người ôi! trời vậy tính sao ra.”

Nguyễn Đình Chiểu đặt ra một câu hỏi day dứt: Nếu sự thịnh suy đã được định sẵn trong vòng xoay của số mệnh, thì con người biết tính sao đây? Ông không chấp nhận sự đầu hàng trước số phận, nhưng cũng không khỏi xót xa khi chứng kiến cảnh đất nước rơi vào tay giặc.

Đây không chỉ là nỗi lòng của tác giả mà còn là tâm tư của bao thế hệ người Việt Nam khi đứng trước những biến động lớn lao của lịch sử. Đôi khi, dù có ý chí kiên cường, con người vẫn bị cuốn theo vòng xoáy nghiệt ngã của thời thế.

Thông điệp của bài thơ – Giữ vững tinh thần trước thời cuộc đổi thay

Bài thơ Điếu Phan Công Tòng (bài 03) không chỉ là lời thương tiếc dành cho một bậc anh hùng, mà còn là sự trăn trở về vận nước. Nguyễn Đình Chiểu không than khóc một cách bi lụy, mà dùng những hình ảnh đầy sức nặng để gửi gắm nỗi đau chung của dân tộc.

Dù lịch sử có đổi thay, dù chính nghĩa có lúc bị lấn át, nhưng tinh thần quật cường của những bậc anh hùng như Phan Ngọc Tòng sẽ mãi là tấm gương cho hậu thế. Thời thế có thể tàn khốc, nhưng người dân đất Việt không thể đánh mất ý chí và lòng trung nghĩa của mình.

Bài thơ nhắc nhở chúng ta rằng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng không được quên đi bài học của lịch sử. Biến cố có thể đến, nhưng tinh thần yêu nước, khí phách hiên ngang mới là thứ trường tồn mãi mãi.

*

Nguyễn Đình Chiểu (1822–1888): Nhà thơ lớn, Danh nhân văn hóa thế giới

Nguyễn Đình Chiểu, tục gọi là cụ Đồ Chiểu, là một nhà thơ yêu nước tiêu biểu của Nam Bộ trong thế kỷ 19. Ông sinh ngày 1/7/1822 tại Gia Định (nay thuộc TP.HCM) trong một gia đình nhà nho. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến cố, từ mất mẹ, mù lòa đến cảnh nước mất nhà tan, nhưng ông vẫn giữ vững đạo đức và lòng yêu nước.

Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, và Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca. Thơ văn của ông thể hiện quan niệm “văn dĩ tải đạo,” luôn hướng tới đề cao chính nghĩa, lòng yêu nước và phẩm chất đạo đức.

Với những đóng góp xuất sắc cho văn hóa và tinh thần dân tộc, ngày 24/11/2021, ông được UNESCO vinh danh là Danh nhân Văn hóa Thế giới. Hiện khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại Bến Tre là di tích quốc gia đặc biệt, trở thành điểm đến tri ân của nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý.

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *