Cảm nhận về bài thơ: Hoàng trùng trập khởi – Nguyễn Đình Chiểu

Hoàng trùng trập khởi

Quái dữ a!
Thế sự gẫm ngán trân, người trong cõi dần lân tân khổ;
Cuộc đời xem lãng nhách, kẻ dưới trần lạch ạch gian lung.

Năm Giáp Thìn hồng thuỷ phát trùng trùng, người thất lạc chẳng còn hoài sự nghiệp;
Cơn Ất Tị cào cào sinh điệp điệp, kẻ nông tang đà hết tưởng điền trù.

Hoạ đâu mà hoạ phát tu du;
Tai chi có tai sinh bất cập.

Gò Công cập điền vi vạn thập, mạ đang xanh, lúa đang nở, cắn một hồi bông trái xơ rơ;
Khổng tước giao địa quản thiên dư, cây đang trổ, lá đang đơm, ăn một lát ngọn ngành trụi lủi.

Người chung cuộc gẫm âu may rủi;
Vật vô tri xét cũng phước phần.

Hay là trời khiến cuộc gian truân;
Hay là trời làm cho bỏ ghét.

Ôi! Ghét chi bấy ghét xuôi ghét ngược, hết trận nầy sang trận khác, vậy chớ dân ai sinh ra mà chẳng nghĩ tấm lòng thương;
Á! Giận chi mà giận đắng giận cay, rồi nỗi nọ tới nỗi nầy, vậy chớ ai sắm mà không đem lời chiếu cố.

Phải tận số thì làm cho ra bề tận số, sống trăm năm mệt xác, có thầm than thì chắc lưỡi lắc đầu;
Phải mãn căn thì làm cho đến kiếp mãn căn, chất muôn tuổi trên đầu, có thương trách lại nặng hơi mỏi cổ.

Gặp lúc khổ phải cam lòng chịu khổ, khổ làm sao mà tự gót chi đầu;
Nhằm hồi vui ưng để cho vui, vui làm sao mà cắn răng nhăn mặt.

Cào cào thật loài trùng rất ngặt, gọi chung tư thật uổng chữ thánh hiền;
Cào cào là giống độc hằng niên, tri bản tính thật khinh khi nhân vật.

Kìa như tàm thổ ty phong nhưỡng mật, người hãy còn trân trọng, miệng ăn trôn ỉa mà lợi bủa muôn nhà;
Nọ như thước cố thực, thử xuyên gia chúng đâu có yêu vì, mắt ngó mỏ xoi mà hư không đà mấy chỗ.

Có chữ rằng: Nhược phục nhất lũ, tu tư chức nữ chi lao;
Nhật thực tam xan, mỗi niệm nông phu chi khổ.

Chớ như bây:
Ăn muốn ăn cho tiệt, của ông cha gì sắm để mà nghĩ tình dãi nắng dầm mưa;
Phá muốn phá cho tiêu, vật mồ tổ chi sẵn dành mà đoái sức cày sâu cuốc cạn.

Trăm họ ai ai đều kết oán, giết mỏi tay, rượt mỏi cẳng, giống bây sinh quá lẹ, một đêm rồi coi thế cũng như;
Nghìn người ai chẳng bị hư, xô hết sức, đuổi hết hơi, loài bây ở vô nghì, giây phút lại càng thấy y lệ.

Trống thúc mõ hồi đâu kể, bấu đầu ăn ai đói mặc ai;
Chà quơ chổi đập chi sờn, đua miệng cắn thế nào thì thế.

Thật giống sinh khó dễ;
Quả vật phát dị kỳ.

Cõi Nam Kỳ mấy tỉnh gian nguy, vì miệng đó xúm chùm lại hư hại; Chốn trần thế muôn nhà đồi bại, vì miệng bây hùa hạp phá tan hoang.

Nhọc nhằn thay! mấy hạt chịu tai nàn, ôm bụng đói mai đưa chiều rước;
Thương hại ẻ! một niêm đeo bi thảm, mói lòng trong sớm ngớt tối châm.

Bấy nhiêu hồi ruột thắc gan bầm, ngày cực thấu những đêm, thân bao quản gối sương nằm vát;
Xiết mấy bữa lưng rùng cánh mỏi, sáng mệt cho đến tối, dạ không cùng ngậm oán trêu hờn.

Gẫm nợ đời lúa thóc ai vay;
Mà khiến nỗi ruộng trâu lo trả.


(Tiêu đề bài này nghĩa là cào cào dấy lên phá lúa)

*

Cào Cào Dấy Lên Phá Lúa – Tiếng Than Xé Lòng Của Người Dân Cùng Khổ

Bài thơ “Hoàng trùng trập khởi” của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là một tác phẩm mang tính thời sự về thiên tai, dịch họa mà còn là tiếng kêu thống thiết của người dân trước cảnh lầm than, đói khổ. Dưới ngòi bút đầy bi phẫn của nhà thơ, hình ảnh cào cào – loài côn trùng nhỏ bé nhưng có sức tàn phá khủng khiếp – trở thành biểu tượng của sự hoành hành dữ dội, làm tiêu điều ruộng đồng, đẩy con người vào cảnh khốn cùng.

Tai họa chồng chất – Thiên nhiên hay số phận nghiệt ngã?

Ngay từ đầu bài thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện sự chán chường, tuyệt vọng trước cảnh đời đầy gian truân:

“Thế sự gẫm ngán trân, người trong cõi dần lân tân khổ;
Cuộc đời xem lãng nhách, kẻ dưới trần lạch ạch gian lung.”

Những trận thiên tai liên tiếp kéo đến, hết lũ lụt lại đến nạn cào cào, khiến bao gia đình tan tác, công sức của người nông dân đổ sông đổ bể:

“Năm Giáp Thìn hồng thuỷ phát trùng trùng, người thất lạc chẳng còn hoài sự nghiệp;
Cơn Ất Tị cào cào sinh điệp điệp, kẻ nông tang đà hết tưởng điền trù.”

Những câu thơ này không chỉ ghi lại thảm cảnh mất mùa, đói kém mà còn chất chứa sự bàng hoàng, đau đớn của những người bị đẩy đến bước đường cùng. Đất nước vốn đã nghèo khổ, nay thiên tai lại càng làm cho cuộc sống điêu đứng hơn bao giờ hết.

Cào cào – loài phá hoại vô tâm, biểu tượng của sự bạo tàn

Tác giả không chỉ miêu tả nạn cào cào một cách trực quan mà còn nhân cách hóa loài côn trùng này thành những kẻ phá hoại nhẫn tâm, không màng đến nỗi đau của con người:

“Mạ đang xanh, lúa đang nở, cắn một hồi bông trái xơ rơ;
Cây đang trổ, lá đang đơm, ăn một lát ngọn ngành trụi lủi.”

Sự tàn phá của cào cào không chỉ là hình ảnh thực tế về một trận dịch châu chấu mà còn mang ý nghĩa biểu tượng: đó là những thế lực nhẫn tâm tàn phá cuộc sống nhân dân, là nỗi thống khổ không có hồi kết.

Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Chiểu còn so sánh cào cào với những loài côn trùng khác để nhấn mạnh bản chất “vô tri nhưng đầy tàn độc” của chúng:

“Kìa như tàm thổ ty phong nhưỡng mật, người hãy còn trân trọng, miệng ăn trôn ỉa mà lợi bủa muôn nhà;
Nọ như thước cố thực, thử xuyên gia chúng đâu có yêu vì, mắt ngó mỏ xoi mà hư không đà mấy chỗ.”

Tằm nhả tơ để làm đẹp cho đời, chim thước dù đào xới nhưng không gây hại quá lớn, còn cào cào chỉ biết ăn phá mà chẳng đem lại lợi ích gì. Phải chăng, đây cũng là lời tố cáo những kẻ chỉ biết vơ vét, hưởng lợi trên nỗi khổ của dân chúng?

Nỗi đau của người dân – tiếng than trời không thấu

Bài thơ không chỉ dừng lại ở việc miêu tả sự hoành hành của cào cào mà còn là lời than oán xé lòng của những người nông dân khốn khổ. Họ oán trách trời đất, nhưng cũng dần chấp nhận số phận:

“Phải tận số thì làm cho ra bề tận số, sống trăm năm mệt xác, có thầm than thì chắc lưỡi lắc đầu;
Phải mãn căn thì làm cho đến kiếp mãn căn, chất muôn tuổi trên đầu, có thương trách lại nặng hơi mỏi cổ.”

Cái bất lực trước thiên tai, trước sự nghiệt ngã của số phận khiến người dân không còn biết làm gì ngoài than thở. Họ tự hỏi: Đây là ý trời hay là sự trừng phạt nào đó?

“Hay là trời khiến cuộc gian truân;
Hay là trời làm cho bỏ ghét.”

Nhưng cuối cùng, họ vẫn phải cam chịu, bởi họ không có quyền lựa chọn số phận cho chính mình.

Lời tố cáo và niềm hy vọng le lói

Dù bài thơ tràn ngập nỗi oán hờn, nhưng ẩn sâu trong đó là một thông điệp mạnh mẽ: Nỗi khổ của nhân dân không chỉ đến từ thiên tai, mà còn từ những kẻ vô tâm, những thế lực tàn bạo không màng đến cuộc sống của người dân.

“Trăm họ ai ai đều kết oán, giết mỏi tay, rượt mỏi cẳng, giống bây sinh quá lẹ, một đêm rồi coi thế cũng như;
Nghìn người ai chẳng bị hư, xô hết sức, đuổi hết hơi, loài bây ở vô nghì, giây phút lại càng thấy y lệ.”

Đây có thể coi là một ẩn dụ sâu cay về tình trạng của xã hội lúc bấy giờ – nơi mà những kẻ tham lam, tàn bạo vẫn tiếp tục sinh sôi, làm cho dân tình lầm than khốn khổ.

Dù vậy, Nguyễn Đình Chiểu không để bài thơ chìm trong bi thương tuyệt vọng. Ông khéo léo nhắc nhở rằng, dù khó khăn đến đâu, con người vẫn phải gắng gượng mà sống:

“Gẫm nợ đời lúa thóc ai vay;
Mà khiến nỗi ruộng trâu lo trả.”

Nghĩa là, dù bị vùi dập đến mức nào, những người nông dân vẫn phải tiếp tục cuộc sống, tiếp tục cày cấy dù biết rằng có thể sẽ lại mất mùa, lại khổ đau. Đây chính là tinh thần kiên cường, bất khuất của nhân dân – điều mà Nguyễn Đình Chiểu luôn đề cao trong những sáng tác của mình.

Lời kết

“Hoàng trùng trập khởi” không chỉ là một bài thơ tả thực về nạn châu chấu hoành hành, mà còn là bức tranh bi thương về cuộc sống của những người dân lao động trong xã hội đầy bất công. Qua hình ảnh cào cào, tác giả không chỉ nói về thiên tai mà còn gửi gắm sự phẫn uất về những thế lực tàn bạo, những kẻ “ăn không chừa một thứ gì” trong xã hội.

Nhưng dù trong đau khổ, bài thơ vẫn ánh lên tinh thần chịu đựng kiên cường của nhân dân, cùng với đó là lời nhắn nhủ: Những thế lực tàn phá, dù là thiên nhiên hay con người, cũng sẽ không thể mãi mãi lấn át được ý chí sống còn của những người lao động chân chính.

*

Nguyễn Đình Chiểu (1822–1888): Nhà thơ lớn, Danh nhân văn hóa thế giới

Nguyễn Đình Chiểu, tục gọi là cụ Đồ Chiểu, là một nhà thơ yêu nước tiêu biểu của Nam Bộ trong thế kỷ 19. Ông sinh ngày 1/7/1822 tại Gia Định (nay thuộc TP.HCM) trong một gia đình nhà nho. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến cố, từ mất mẹ, mù lòa đến cảnh nước mất nhà tan, nhưng ông vẫn giữ vững đạo đức và lòng yêu nước.

Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, và Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca. Thơ văn của ông thể hiện quan niệm “văn dĩ tải đạo,” luôn hướng tới đề cao chính nghĩa, lòng yêu nước và phẩm chất đạo đức.

Với những đóng góp xuất sắc cho văn hóa và tinh thần dân tộc, ngày 24/11/2021, ông được UNESCO vinh danh là Danh nhân Văn hóa Thế giới. Hiện khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại Bến Tre là di tích quốc gia đặc biệt, trở thành điểm đến tri ân của nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý.

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *