Cảm nhận về bài thơ: Lòng chiến sĩ – Trần Huyền Trân

(Kính dâng Phạm Ngũ Lão)

Bao lâu xông xáo rừng binh lửa
Vó ngựa đêm nay cuốn bụi về
Trong gió thanh bình lừng điệu nhạc
Rung lòng chiến sĩ động hồn quê

Thuở ấy ra quân lớp lớp dài
Mẹ già phẩy áo hẹn tương lai
Lòng con nắng giục mầm hoa nở
Gió bốn phương lùa lộng chí trai.

Đốc gươm cương ngựa gọn trong tay
Từ đấy đưa giông bão tháng ngày
Từ đấy căm hờn say mắt tía
Khoa đao máu giặc đỏ râu mày

Nhưng khi đền đáp cõi lòng son
Đáp nước non thì một nước non
Lóng ngóng tay già đan giỏ ấy
Lòng già líu ríu mãi tình con

Bữa chẳng no lòng giấc chẳng yên
Một mình lẫm cẫm ngó trong đêm
Đêm nào, đêm nảo, đêm nao nữa
Bóng mặt trời đâu chẳng thấy lên

Để đến đêm qua trời nổi gió
Lá vàng khôn níu lấy cành xanh
Người đàn bà ấy trong mong nhớ
Bước vội qua đời một bước nhanh

Mặt trận đêm nay mừng đắc thắng
Rượu nồng sôi máu đỏ, ô hay
Men buồn nhẹ bốc trong lòng vắng
Thoáng bóng ai trong cốc rượu đầy

Trong trướng bâng khuâng cũng có lần
Thở dài bên giấc ngủ ba quân
Binh thư ngừng giở, bào quên cởi
Đèn nhớ thương ai bấc lụi dần

Đâu đây cây cỏ chuyện xôn xao
Chim rúc ru con tận xóm nào
Xao xuyến cả trong lòng chiến mã
Đuôi mừng phủi sạch bụi binh đao.

Buồn bực nâng râu đứng ngóng trời
Ngây nhìn thoi thóp vệt sao rơi
Chạnh lòng chiến sĩ vùng lên ngựa
Trong gió rên dài “hỡi mẹ ơi!”

Áo bào quạt ngựa bay phân phất
Lối cũ băng qua dạt lúa đồng
Má ướt sương đầm hay nước mắt
Mà lòng sao cuộn tựa dòng sông.

Kìa bóng cau già đứng xác xơ
Ở đây dấu vết thuở ngày xưa
Nằm ôm gốc gạo lều nghiêng mái
Cánh liếp che sương lúc đợi chờ

Lòng sầu tráng sĩ rối như mây
Vội vội gò cương đổ bóng gầy
Vội vội xô phên kêu vội vội
Mẹ ơi! Con đã trở về đây!

Nhưng lời kêu gọi để ai nghe
Mây xế trời chênh gió nặng nề
Trăng lạnh dòm song màn rủ lạnh
Lều hoang thôi chẳng đáp ai về.

Bà mẹ già kia cũng thế thôi
Lời mong nhớ lắm đã câm lời
Lòng mong nhớ lắm tơ lòng đứt
Mắt loá chờ con khép chặt rồi

Này khôi, này giáp, này đao mã
Này hốt, đai, hia, mảnh ấn hầu
Tất cả mẹ ơi! Đây tất cả
Làm sao đổi được tấm tình sâu

Làm sao đổi được một lần thôi
Manh áo ngàn xưa ủ ấp hơi
Khi uống say trong bầu vú mẹ
Cả nguồn sống ấy mẹ hiền ơi!

Chao ôi binh lửa! Ôi binh lửa
Đây một hồn thiêng chết nữa đây
Chao ơi binh lửa! Ôi binh lửa
Ai dẹp lòng ta trận giặc này!


Ô Chợ Dừa, 1939

*

Lòng Chiến Sĩ – Giữa Chiến Công và Nỗi Đau Mẫu Tử

Bài thơ “Lòng chiến sĩ” của Trần Huyền Trân không chỉ là một bản tráng ca về người anh hùng nơi trận mạc, mà còn là một khúc bi thương của lòng hiếu tử. Giữa khói lửa chiến tranh, giữa những chiến công rực rỡ, vẫn có một trái tim khát khao một mái nhà, một người mẹ già đợi con trong cô quạnh.

Tác giả đã kính dâng bài thơ này lên danh tướng Phạm Ngũ Lão – người từng ôm nỗi hổ thẹn vì chưa trả được nợ công danh. Nhưng bài thơ không chỉ dành riêng cho một cá nhân, mà còn là lời nhắn nhủ muôn đời về bi kịch “trung quân” và “hiếu tử” – một người con trung thành với đất nước nhưng lại chẳng thể kề bên mẹ hiền khi bóng chiều xế bóng.

1. Hào khí chiến trận – Khi trai trẻ ra đi vì nước

Bao lâu xông xáo rừng binh lửa
Vó ngựa đêm nay cuốn bụi về

Từ những ngày đầu xông pha nơi chiến trận, người chiến sĩ đã sống giữa binh đao, giữa khói lửa, giữa những cuộc giao tranh không ngừng nghỉ. Nhưng hôm nay, khi chiến thắng trong tay, khi khúc quân ca còn vang vọng, lòng anh lại chợt động hồn quê.

Thuở ấy ra quân lớp lớp dài
Mẹ già phẩy áo hẹn tương lai

Ngày ra đi, đoàn quân rầm rập kéo dài như sóng cuộn, mẹ già chỉ vẫy tay, hẹn một ngày tái ngộ. Trong lòng người chiến sĩ chỉ có chí trai, có khát vọng vẫy vùng nơi trận mạc, mà đâu hay biết, có một mái nhà nhỏ bé phía sau vẫn ngày đêm mong ngóng tin con.

Từ đấy căm hờn say mắt tía
Khoa đao máu giặc đỏ râu mày

Người chiến sĩ lấy máu rửa gươm, lấy chiến thắng làm niềm kiêu hãnh, chiến đấu như thể chỉ có kẻ mạnh mới được khắc tên trong sử sách. Nhưng cái giá của vinh quang đôi khi quá đắt, quá đau lòng

2. Nỗi đau chờ đợi – Khi người mẹ già mãi đợi một tin con

Bữa chẳng no lòng giấc chẳng yên
Một mình lẫm cẫm ngó trong đêm

Trong lúc con trai tung hoành trên chiến trường, thì mẹ già chỉ có một mình trong mái nhà hiu quạnh, chờ đợi trong bóng tối không một tin tức.

Đêm nào, đêm nảo, đêm nao nữa
Bóng mặt trời đâu chẳng thấy lên

Ngày tháng trôi qua, nhưng mặt trời của lòng mẹ – hình bóng con trai – mãi không trở về. Những đêm dài mòn mỏi, những canh khuya thao thức… nhưng mẹ đâu ngờ rằng, một ngày con về, lại là khi mẹ đã không còn.

3. Khi chiến thắng trở thành bi kịch

Mặt trận đêm nay mừng đắc thắng
Rượu nồng sôi máu đỏ, ô hay
Men buồn nhẹ bốc trong lòng vắng
Thoáng bóng ai trong cốc rượu đầy

Ngày hôm ấy, chiến thắng đã nằm gọn trong tay. Những ly rượu chúc mừng, những tiếng cười hả hê. Nhưng giữa cuộc vui, lòng người chiến sĩ lại dấy lên một nỗi bất an kỳ lạ.

Trong trướng bâng khuâng cũng có lần
Thở dài bên giấc ngủ ba quân
Binh thư ngừng giở, bào quên cởi
Đèn nhớ thương ai bấc lụi dần

Ngay cả khi đang giữa trận mạc, lòng người con vẫn có những khoảnh khắc trống trải, có những lúc nhìn vào ánh đèn mà nhớ về quê nhà, nhớ đến người mẹ già chẳng biết giờ đây còn hay đã mất.

Và rồi, linh tính không sai

4. Quay về – Nhưng đã quá muộn

Buồn bực nâng râu đứng ngóng trời
Ngây nhìn thoi thóp vệt sao rơi
Chạnh lòng chiến sĩ vùng lên ngựa
Trong gió rên dài “hỡi mẹ ơi!”

Chiến sĩ vội vàng lên ngựa, vội vàng băng qua lúa đồng, vội vàng phóng đi trong đêm – nhưng liệu có kịp?

Lều hoang thôi chẳng đáp ai về.

Không còn ai ở đó nữa. Không còn mẹ. Không còn ánh mắt chờ mong.

Người con tưởng rằng chiến thắng sẽ là ngày hạnh phúc nhất, nhưng hóa ra, đó cũng là ngày đau đớn nhất đời anh.

Bà mẹ già kia cũng thế thôi
Lời mong nhớ lắm đã câm lời

Mẹ đã đợi đến khi không thể đợi nữa. Và giờ đây, chỉ còn lại một nấm mồ lạnh lẽo.

5. Hối hận muộn màng – Cái giá của binh lửa

Này khôi, này giáp, này đao mã
Này hốt, đai, hia, mảnh ấn hầu
Tất cả mẹ ơi! Đây tất cả
Làm sao đổi được tấm tình sâu

Cả cuộc đời chinh chiến, đổi lại được gì?
giáp trụ, là chiến công, là ấn quan hầu, nhưng đổi lại, anh đã mất mẹ mãi mãi.

Chao ôi binh lửa! Ôi binh lửa
Đây một hồn thiêng chết nữa đây

Anh đã thắng bao trận chiến, nhưng trận chiến lớn nhất trong lòng – trận chiến của tình mẫu tử – anh lại thua cay đắng.

Ai dẹp lòng ta trận giặc này!

Anh có thể đánh bại kẻ thù, nhưng làm sao đánh bại được nỗi đau này?

6. Lời kết – Bi kịch muôn đời của những người lính

“Lòng chiến sĩ” không chỉ kể về một câu chuyện cá nhân, mà còn là nỗi đau muôn đời của những người con phải hy sinh hạnh phúc gia đình vì đất nước.

Trần Huyền Trân đã khắc họa một người lính không chỉ có hào khí, mà còn có một trái tim đầy xúc cảm. Anh sống hết mình vì nước, nhưng cũng đau đớn tột cùng khi nhận ra rằng, không có gì cao quý hơn tình mẹ.

Nhưng liệu có phải ai cũng nhận ra điều đó khi còn kịp?
Hay rồi cũng như chàng chiến sĩ kia, chỉ đến khi mất đi mới hiểu một lần được ở bên mẹ quý giá đến nhường nào?

*

Trần Huyền Trân – Nhà thơ, nhà hoạt động sân khấu tài hoa

Trần Huyền Trân (1913-1989), tên thật là Trần Đình Kim, là một nhà thơ và nhà hoạt động sân khấu xuất sắc của Việt Nam. Ông không chỉ ghi dấu ấn sâu đậm trong phong trào Thơ mới với những vần thơ đầy trăn trở và suy tư, mà còn có những đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thống, đặc biệt là chèo.

Bắt đầu sáng tác từ năm 20 tuổi, thơ ông mang màu sắc tự sự, hoài niệm, phản ánh những nỗi niềm lữ khách cô độc, trăn trở về thân phận con người và thời cuộc. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như Mười năm, Độc hành ca, Uống rượu với Tản Đà, Mưa đêm lều vó

Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, hoạt động trong lĩnh vực sân khấu và dành trọn tâm huyết để gìn giữ nghệ thuật chèo. Ông là một trong những người sáng lập nhóm chèo Cổ Phong, sưu tầm và chỉnh lý nhiều tích chèo cổ nổi tiếng như Xúy Vân giả dại, Quan Âm Thị Kính…, góp phần gìn giữ tinh hoa sân khấu dân gian Việt Nam.

Di sản nghệ thuật của Trần Huyền Trân vô cùng phong phú, trải dài trên nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, chèo. Một số tác phẩm nổi bật gồm: Thơ: Mười năm, Độc hành ca, Mưa đêm lều vóTiểu thuyết, truyện ngắn: Tấm lòng người kỹ nữ (1941), Người ngàn thu cũ (1942), Sau ánh sáng (1940)Kịch, chèo: Lên đường, Tú Uyên Giáng Kiều, Lý Thường Kiệt, Hoàng Văn Thụ, Lửa Hà Nội

Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những cống hiến to lớn đối với văn hóa Việt Nam.

Cuộc đời của Trần Huyền Trân là sự giao thoa giữa thi ca và sân khấu, giữa trữ tình và chính luận, để lại một di sản quý giá cho hậu thế.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *