Nhớ nhau
Mờ mờ mưa luống rau xanh
Nắng còn thoi thóp như tình tiễn đưa
Trông mưa chạnh nhớ lời thơ
Với người hôm ấy cũng mưa âm thầm
Người là một kiếp thi nhân
Tóc xanh đã nhuộm mấy lần biển dâu
Nhà người bên một dòng sâu
Xác xơ khóm trúc hàng cau lạnh lùng
Hồn thơ về lánh bụi hồng
Quyển vàng tóc bạc nằm chung một lều
Có đàn con trẻ nheo nheo
Có dăm món nợ eo sèo bên tai
Chừng lâu rượu chẳng về chai
Nhện giăng giá bút một vài đường tơ
Nghiên son lớp lớp bụi mờ
Mọt ôn tờ lại từng tờ cổ thi
Phải đây là bóng tôi kìa
Con đò bến cũ đi về phong ba
Nhìn tôi người bỗng cười khà
“Đời là thế ấy – ta là thế thôi!”
Tôi giờ ngược ngược xuôi xuôi
Rót vào lòng khắp tình người hợp tan
Chiều nay chiều dệt mưa vàng
Tôi buồn trông bóng nắng tàn trong mưa
Ngã Tư Sở 1938
*
Nhớ Nhau – Khi Nỗi Nhớ Tan Trong Mưa
Có những nỗi nhớ không ồn ào, không day dứt, chỉ lặng lẽ len vào từng hạt mưa, từng tia nắng yếu ớt còn sót lại cuối chiều. “Nhớ nhau” của Trần Huyền Trân, là một bản hòa ca trầm lắng về tình tri kỷ, về sự chia xa và những hoài niệm khắc khoải trong lòng kẻ sĩ giữa cõi nhân gian phù du.
Dưới cơn mưa mờ mịt của một chiều ngã tư, tác giả để lòng mình trôi theo những ký ức cũ, về một người bạn thơ tài hoa nhưng bạc mệnh, về những cuộc rượu chưa tàn đã vội chia xa, về kiếp đời của những kẻ ôm mộng văn chương mà lạc bước giữa cuộc đời cơm áo gạo tiền.
Mưa – Nhịp cầu nối những nỗi nhớ
Mờ mờ mưa luống rau xanh
Nắng còn thoi thóp như tình tiễn đưa
Ngay từ câu mở đầu, không gian đã nhuốm màu chia ly. Cơn mưa mờ mịt, ánh nắng thoi thóp, tất cả như phản chiếu một thứ tình cảm đang dần xa, một sự chia tay không lời mà lòng vẫn chưa nguôi thương nhớ.
Trông mưa chạnh nhớ lời thơ
Với người hôm ấy cũng mưa âm thầm
Cơn mưa của hôm nay gợi lại một ngày mưa khác, nơi mà một cuộc gặp gỡ từng diễn ra. Mưa không chỉ là cảnh vật, mà còn là nhịp cầu nối những ký ức, là tiếng lòng của những người tri kỷ dù cách xa vẫn thấu hiểu nhau trong lặng im.
Kiếp thi nhân – Những phận đời xơ xác
Người bạn được nhắc đến trong bài thơ không chỉ là một con người, mà còn là hình tượng của bao kiếp thi nhân bạc mệnh, của những tâm hồn nghệ sĩ lạc lõng trong cuộc đời.
Người là một kiếp thi nhân
Tóc xanh đã nhuộm mấy lần biển dâu
Thời gian đã bạc màu tóc xanh, đã nhuộm lên đời người những biến cố thăng trầm. Câu thơ vẽ lên hình ảnh một người nghệ sĩ tài hoa nhưng cô độc, đã trải qua quá nhiều biến thiên của thế sự.
Nhà người bên một dòng sâu
Xác xơ khóm trúc hàng cau lạnh lùng
Người ấy sống một cuộc đời giản dị, lặng lẽ, ẩn mình bên một dòng sông sâu, nơi có khóm trúc, hàng cau, có bóng dáng của một tâm hồn thanh bạch nhưng cô quạnh.
Hồn thơ về lánh bụi hồng
Quyển vàng tóc bạc nằm chung một lều
Tài hoa nhưng không cầu danh lợi, người ấy tự lui về một góc nhỏ của thế gian, nơi chỉ còn thơ ca, sách vở làm bạn. Cảnh nghèo khó không chỉ là vật chất, mà còn là sự cô đơn của một tâm hồn không được thế gian thấu hiểu.
Có đàn con trẻ nheo nheo
Có dăm món nợ eo sèo bên tai
Nhưng đời không chỉ có thơ, còn có trách nhiệm, cơm áo, nợ nần. Hình ảnh đàn con thơ nheo nhóc, những món nợ vẫn ngày ngày bủa vây, tất cả làm nên một bức tranh về kiếp người nghệ sĩ – đẹp mà cay đắng, tài hoa mà lận đận.
Thời gian bào mòn, người bạc theo năm tháng
Chừng lâu rượu chẳng về chai
Nhện giăng giá bút một vài đường tơ
Cái cảnh rượu cạn, bút lặng lẽ phủ bụi, gợi lên một nỗi buồn man mác về sự phai tàn của đam mê, của hoài bão. Một thi nhân từng sống hết mình với chữ nghĩa, giờ đây cũng đành bất lực trước cơm áo đời thường.
Nghiên son lớp lớp bụi mờ
Mọt ôn tờ lại từng tờ cổ thi
Bụi phủ nghiên son, mọt gặm sách cũ, hình ảnh đầy xót xa về một tài năng bị lãng quên, về một tâm hồn đã từng rực rỡ nay chỉ còn là dĩ vãng.
Gặp lại trong ký ức – Một nụ cười cay đắng
Phải đây là bóng tôi kìa
Con đò bến cũ đi về phong ba
Tác giả nhìn người bạn của mình, nhưng cũng như đang nhìn chính bản thân mình trong tương lai. Hai kẻ sĩ, hai số phận, nhưng cùng một kiếp nổi trôi giữa dòng đời.
Nhìn tôi người bỗng cười khà
“Đời là thế ấy – ta là thế thôi!”
Một nụ cười nhẹ như gió thoảng, nhưng ẩn chứa cả một sự cam chịu, một nỗi buồn đã thấm vào máu thịt. Đời là vậy, có gì khác được? Ta cũng chỉ là một phần nhỏ trong vòng xoay của thế gian.
Tâm sự của người ở lại
Tôi giờ ngược ngược xuôi xuôi
Rót vào lòng khắp tình người hợp tan
Tác giả vẫn đang trên hành trình của riêng mình, vẫn bước đi giữa những cuộc gặp gỡ rồi chia ly, vẫn trải lòng ra với bao nỗi hợp tan của thế gian. Nhưng sâu thẳm trong lòng, nỗi buồn vẫn cứ vương vấn.
Chiều nay chiều dệt mưa vàng
Tôi buồn trông bóng nắng tàn trong mưa
Chiều dệt mưa vàng, nắng dần tắt trong cơn mưa… Hình ảnh đầy ẩn dụ về một cuộc đời đang lụi dần trong những tiếc nuối, trong những điều chưa kịp trọn vẹn.
“Nhớ nhau” – Một khúc ngâm cho những tri kỷ lỡ làng
“Nhớ nhau” không đơn thuần chỉ là bài thơ về nỗi nhớ, mà còn là bản giao hòa giữa ký ức và hiện tại, giữa những tâm hồn từng gặp nhau nhưng rồi xa nhau, giữa những giấc mộng thi nhân và hiện thực nghiệt ngã.
- Đó là nỗi xót xa trước một tài năng bị lãng quên.
- Đó là sự tiếc nuối cho những cuộc hội ngộ ngắn ngủi.
- Đó là nỗi cô đơn của người nghệ sĩ khi không tìm được lối thoát giữa chữ nghĩa và đời thực.
Nhưng hơn hết, bài thơ còn là một lời tri âm gửi đến những người bạn cùng chung chí hướng, cùng chung nỗi niềm với thơ ca, với cuộc đời. Bởi dù có xa nhau, dù có lạc bước, thì những tâm hồn đồng điệu vẫn luôn nhớ về nhau, như ánh nắng còn vương lại trong mưa, như những câu thơ chưa bao giờ cũ.
*
Trần Huyền Trân – Nhà thơ, nhà hoạt động sân khấu tài hoa
Trần Huyền Trân (1913-1989), tên thật là Trần Đình Kim, là một nhà thơ và nhà hoạt động sân khấu xuất sắc của Việt Nam. Ông không chỉ ghi dấu ấn sâu đậm trong phong trào Thơ mới với những vần thơ đầy trăn trở và suy tư, mà còn có những đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thống, đặc biệt là chèo.
Bắt đầu sáng tác từ năm 20 tuổi, thơ ông mang màu sắc tự sự, hoài niệm, phản ánh những nỗi niềm lữ khách cô độc, trăn trở về thân phận con người và thời cuộc. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như Mười năm, Độc hành ca, Uống rượu với Tản Đà, Mưa đêm lều vó…
Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, hoạt động trong lĩnh vực sân khấu và dành trọn tâm huyết để gìn giữ nghệ thuật chèo. Ông là một trong những người sáng lập nhóm chèo Cổ Phong, sưu tầm và chỉnh lý nhiều tích chèo cổ nổi tiếng như Xúy Vân giả dại, Quan Âm Thị Kính…, góp phần gìn giữ tinh hoa sân khấu dân gian Việt Nam.
Di sản nghệ thuật của Trần Huyền Trân vô cùng phong phú, trải dài trên nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, chèo. Một số tác phẩm nổi bật gồm: Thơ: Mười năm, Độc hành ca, Mưa đêm lều vó… Tiểu thuyết, truyện ngắn: Tấm lòng người kỹ nữ (1941), Người ngàn thu cũ (1942), Sau ánh sáng (1940)… Kịch, chèo: Lên đường, Tú Uyên Giáng Kiều, Lý Thường Kiệt, Hoàng Văn Thụ, Lửa Hà Nội…
Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những cống hiến to lớn đối với văn hóa Việt Nam.
Cuộc đời của Trần Huyền Trân là sự giao thoa giữa thi ca và sân khấu, giữa trữ tình và chính luận, để lại một di sản quý giá cho hậu thế.
Viên Ngọc Quý.