Cảm nhận về bài thơ: Thiện ác – Nguyễn Bỉnh Khiêm

Thiện ác

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bài thứ sáu: Hai dòng Thiện–Ác
Là hai điều thật khác nhau xa
Trăm năm trong cõi người ta,
Dở, hay báo ứng, thật là công minh.
Báo ứng có khi nhanh, khi chậm,
Nhà tối, nghèo nào dám coi khinh.
Việc làm phúc nếu vô tình,
Như tuồng lánh nạn, đáng khinh khỏi bàn.
Kẻ bạo ngược mưu toan việc xấu,
Bịp được người sao giấu được trời
Vầng dương mọc lặn luân hồi,
Mặt trăng tròn khuyết, đầy rồi lại cong.
Tình người cũng tụ, xong lại tán,
Buồn lại vui, vui chán lại buồn.
Cỏ hoa sớm nở tối tàn,
Cây tùng cây bách muôn ngàn sức xuân.

Mỗi ngày xét bản thân ba lượt
Đêm nhiều người sẽ biết cho ta.
Số trời vốn sẵn định ra,
Giàu sang có mệnh, vinh hoa có ngày.
Hoa nở muộn do cây cằn cỗi,
Đời chưa vui, bởi nỗi khổ nghèo.
Giàu sang, khách đến thăm nhiều,
Nghèo hèn, thân thích ra chiều cách ly.

Lúc dư dật, phòng khi túng thiếu,
Khi sướng vui, phải liệu khi buồn.
Một nhà nề nếp cương thường,
Cha từ, con thảo, đẹp gương vợ chồng.
Tình anh em: thuận lòng nhân ái,
Nghĩa bạn bè qua lại giúp nhau.
Người con phòng lúc ốm đau.
Chứa thóc phòng đói là câu chí tình.
Giúp người gặp cảnh tình nguy cấp,
Hoặc cứu người trong lúc gian nguy.
Có mới đừng nới cũ đi,
Tiếng nói một nẻo, bụng suy một đằng.
Chớ có lành bắt vành ra méo,
Đừng làm cho bé xé ra to.
Một chút tà tất quanh co,
Người ta sẽ tỏ các trò quắt quay.
Lời không cánh mà bay khắp ngả,
Đạo đức cao thì gốc cả, rễ sâu.
Ngọc vết mài chẳng khó đâu,
Nói sai, biết sửa bao lâu mới lành.
Lời đã nói bay nhanh hơn gió,
Bốn ngựa phi cũng khó đuổi theo.
Khinh người là thói tự kiêu,
Người ta khinh lại, đời nào chịu thua.
Tự khen mình mà chê người hỏng,
Thì người ta có trọng gì mình.
Hãy suy Thiện–Ác, Nhục–Vinh
Ở sao có nghĩa có tình thì hơn.
Việc gia thất muốn yên mọi sự
Mỗi người nên biết xử phận mình
Đừng mưu lấy của bất minh
Chớ ghen ghét với người mình còn thua.
Vợ người ta chớ đùa cợt nhả,
Đừng gièm pha quấy phá hôn nhân.
Một năm có một mùa xuân,
Mỗi ngày chỉ một giờ dần đầu tiên.

Cháy nhà có nước liền dễ chữa,
Láng giềng cần giúp đỡ lẫn nhau.
Tình đời lắm chuyện thương đau,
Anh em để mẩt lòng nhau thật buồn.
Người xưa bảo: thói quen thường vẫn vậy,
Đàn bà thì khó dạy khó chiều.
Quân tử phép chẳng cần theo,
Tiểu nhân chẳng chấp những điều lễ nghi.

Thấy ai có vật gì quý giá,
Chớ lân la tán gạ, nài xin.
Công việc nào quá khó khăn,
Đừng buộc người khác phải lăn vào làm.
Muốn trách người, phải xem mình trước.
Nếu tha mình, tha được người ta.
Đứa bất chính, kẻ gian tà,
Kết thân với chúng dễ mà tàn thân.
Không minh bạch miếng ăn lời nói,
Là nguyên nhân cái tội hại mình.
Lúc trẻ lao động nhiệt tình,
Khi già cuộc sống gia đình thảnh thơi.
Trẻ mà lêu lổng chơi bời,
Về già chắc hẳn cuộc đời gian truân.

Của cho con đâu cần vàng ngọc
Mà cho con được học được hành.
Cho muôn khoảnh ruộng tốt xanh,
Chẳng bằng cho chúng nghề lành trong tay.
Mộng làm giầu thường hay thất đức,
Làm điều nhân khó được giầu sang.
Thuốc hay khó chữa bệnh oan,
Của nhặt được khó mở mang giầu bền.

Bất nghĩa mà trở nên phú quý,
Như mây bay bọt khí nổi trôi.
Phúc do trong sạch lòng người,
Đức từ kiên nhẫn sống đời yêu thương.
Tham lam lắm tất vương tai họa,
Sống bất nhân tội chả thoát đâu.
Tiểu nhân chẳng giúp ai đâu,
Bởi trong lòng họ, như đầu mũi kim.
Chỉ gai góc rắp tìm mưu kế,
Cốt hại người để mong lợi mình.
Người quân tử có bất bình,
Liệu mà xa lánh, kẻo sinh hận thù.
Tình người khác chi tờ giấy trắng,
Như cuộc cờ vốn chẳng giống nhau.
Khéo mà ứng xử với nhau,
Đừng làm ai đó phải chau đôi mày,
Chớ mạt sát day tay mắm miệng,
Để người ta phải nghiến hàm răng.
Ngựa gầy nên kém chạy hăng,
Người không hồ hởi phải chăng vì nghèo.

Sẵn tiền, rượu thì nhiều bạn đấy,
Lúc lâm nguy nào thấy một ai.
Luật trời báo ứng chẳng sai,
Không trước mắt, cung lâu dài chứng minh.

*

“Thiện Ác: Gương Soi Nhân Tâm và Quy Luật Công Bằng Của Tạo Hóa”

Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong bài thơ “Thiện Ác” thuộc tập Bạch Vân gia huấn, đã dựng lên bức tranh sống động về bản chất con người và những quy luật bất biến của nhân sinh. Với giọng thơ giàu triết lý, ông không chỉ răn dạy thế hệ sau về cách sống đúng đắn mà còn nhấn mạnh quy luật nhân quả, như một lời nhắc nhở rằng cuộc đời là tấm gương phản chiếu hành động của mỗi người.

Thiện và Ác: Hai Con Đường Cách Biệt

Tựa đề bài thơ đã gói gọn thông điệp chính: “Thiện”“Ác” là hai con đường đối lập mà mỗi người đều phải lựa chọn. Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:

“Là hai điều thật khác nhau xa,
Dở, hay báo ứng, thật là công minh.”

Ở đời, mọi hành động đều có hậu quả. Thiện dẫn đến niềm vui, an lạc; Ác mang lại đau khổ, bất an. Dù báo ứng có thể đến muộn hay nhanh, sự công minh của tạo hóa là điều không thể tránh khỏi.

Luật Nhân Quả: Mắt Thấy, Lòng Tin

Qua hình ảnh “vầng dương mọc lặn luân hồi, mặt trăng tròn khuyết,” Trạng Trình nhắc nhở rằng vạn vật đều vận hành theo một trật tự. Như thiên nhiên không bao giờ sai lệch, luật nhân quả cũng vậy:

“Kẻ bạo ngược mưu toan việc xấu,
Bịp được người sao giấu được trời.”

Lời thơ như một hồi chuông cảnh tỉnh những kẻ bất lương, nhấn mạnh rằng mọi việc xấu đều không thể trốn tránh khỏi ánh sáng của công lý, dù là dưới mắt người đời hay luật trời.

Đức Hạnh: Nền Tảng Của Cuộc Sống

Trong bài thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ phê phán thói xấu mà còn khuyến khích con người sống có đức hạnh:

“Đạo đức cao thì gốc cả, rễ sâu,
Ngọc vết mài chẳng khó đâu,
Nói sai, biết sửa bao lâu mới lành.”

Ông khẳng định rằng đạo đức giống như cây cổ thụ có gốc rễ sâu bền. Cách sống tốt đẹp không chỉ tạo nên giá trị cho bản thân mà còn làm đẹp lòng người. Đặc biệt, việc biết sửa lỗi lầm chính là biểu hiện của sự trưởng thành, quý giá như việc mài ngọc để nó thêm sáng.

Cảnh Báo Về Lòng Kiêu Ngạo Và Tham Lam

Những lời thơ tiếp tục nhấn mạnh rằng kiêu ngạo, tham lam, và bất nghĩa là nguồn cơn của mọi bất hạnh:

“Tham lam lắm tất vương tai họa,
Sống bất nhân tội chả thoát đâu.”

Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng hình ảnh gai góc và đầu mũi kim để chỉ lòng tham và sự ích kỷ. Ông khuyên con người đừng vì chút lợi ích trước mắt mà gây tổn thương cho người khác, bởi làm ác sẽ không bao giờ mang lại kết cục tốt đẹp.

Tình Người: Đừng Để Phai Nhạt

Bài thơ không chỉ nói về cá nhân mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ giữa người với người. Tình cảm gia đình, tình bạn, và sự giúp đỡ lẫn nhau là giá trị cốt lõi mà con người cần gìn giữ:

“Tình anh em: thuận lòng nhân ái,
Nghĩa bạn bè qua lại giúp nhau.”

Những mối quan hệ được xây dựng trên nền tảng của lòng nhân ái và sự chân thành sẽ là nguồn sức mạnh giúp con người vượt qua khó khăn, đồng thời tạo nên xã hội hòa bình, bền vững.

Thông Điệp Vượt Thời Gian

Cuối bài thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại một thông điệp sâu sắc về quy luật cuộc đời và lời nhắn nhủ cho thế hệ mai sau:

“Luật trời báo ứng chẳng sai,
Không trước mắt, cũng lâu dài chứng minh.”

Lời dạy này như một sự khẳng định rằng mọi hành động, dù thiện hay ác, đều để lại dấu ấn trong cuộc sống. Sống thiện sẽ tạo nên phúc đức, sống ác chỉ mang lại quả báo.

Ánh Sáng Từ Lời Thơ

Bài thơ “Thiện Ác” không chỉ là những lời răn dạy đơn thuần, mà còn là một ngọn đèn soi đường giúp con người tìm đến cách sống tốt đẹp, tránh xa những sai lầm. Nó khuyến khích chúng ta không ngừng kiểm điểm bản thân, sống với lòng nhân từ, biết yêu thương và giúp đỡ người khác.

Hơn cả một bài thơ, “Thiện Ác” là một tấm gương sáng, phản chiếu sự thật của đời người, nhắc nhở chúng ta rằng sự công bằng của tạo hóa không bao giờ bỏ sót bất kỳ ai. Vì vậy, hãy lựa chọn sống thiện, bởi chỉ có thiện mới là con đường dẫn đến sự bình yên và hạnh phúc vững bền.

*

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một danh nhân văn hóa, nhà thơ, nhà triết học và nhà tiên tri lỗi lạc của Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Văn Đạt, quê ở Hải Phòng, đỗ Trạng nguyên năm 1535 dưới triều Mạc và từng giữ chức quan lớn trong triều đình. Tuy nhiên, do bất mãn với thời cuộc, ông lui về ở ẩn, lập am Bạch Vân và trở thành một bậc hiền triết, được nhân dân gọi là “Trạng Trình”.

Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng với những lời tiên đoán qua tập “Sấm Trạng Trình”, đồng thời để lại nhiều tác phẩm thơ văn sâu sắc thể hiện tư tưởng đạo lý, nhân sinh. Ông có ảnh hưởng lớn đến các triều đại và là một trong những trí thức kiệt xuất của Việt Nam thời phong kiến.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *