Thơ không có tên
Có những bài thơ không có tên
Không lời vì chẳng muốn người xem
Vần reo theo mắt chân rung nhạc
Xô xát trong lòng bão táp lên
Có những bài thơ như rối tơ
Đời không lời tiếng để cho vừa
Dẫu muôn dòng chữ nghìn trang giấy
Lòng để làm sao đắp được bờ
Thì đấy là thơ riêng tặng nhau
Không gian khoảnh khắc vạn muôn mầu
Thời gian khoảnh khắc như vô tận
Bắc cả thiên thu một nhịp cầu
*
Những Bài Thơ Không Tên – Khi Lời Không Cần Nói
Có những bài thơ không cần tên. Không phải vì thiếu chữ, mà bởi cảm xúc trong nó quá lớn, quá riêng, quá sâu để có thể gói gọn trong một cái tên.
“Thơ không có tên” của Trần Huyền Trân là một bài thơ như thế – một khúc nhạc lòng không lời, một dòng chảy cảm xúc mãnh liệt nhưng không thể diễn đạt thành câu chữ trọn vẹn. Nó là những xúc cảm ẩn sâu trong trái tim, là những nỗi niềm chỉ những ai đồng điệu mới có thể hiểu, không cần đọc, không cần giải thích.
Những bài thơ chỉ có trái tim lắng nghe
Có những bài thơ không có tên
Không lời vì chẳng muốn người xem
Ngay từ câu mở đầu, tác giả đã phủ lên bài thơ một lớp sương mờ của sự kín đáo, riêng tư. Thơ vốn dĩ là để sẻ chia, là để con người tìm thấy nhau trong câu chữ, nhưng có những bài thơ không được viết ra để đọc, không cần tên gọi để người đời biết đến. Chúng chỉ tồn tại như những dòng cảm xúc lặng lẽ, chỉ những ai thực sự hiểu mới có thể nghe thấy.
Vần reo theo mắt chân rung nhạc
Xô xát trong lòng bão táp lên
Thơ không lời, nhưng nhịp điệu vẫn vang lên trong ánh mắt, trong những bước chân, trong từng cơn bão lòng cuộn trào. Đó là những cơn sóng cảm xúc không thể gọi tên, nhưng vẫn ồn ào trong trái tim, vẫn xô đẩy, giằng xé, bùng nổ trong thẳm sâu tâm hồn.
Khi nỗi lòng không thể viết thành câu chữ
Có những bài thơ như rối tơ
Đời không lời tiếng để cho vừa
Có những tâm sự rối ren như những sợi tơ quấn chặt, càng gỡ càng rối. Đời người, có biết bao điều muốn nói, bao nỗi niềm muốn giãi bày, nhưng ngôn từ lại trở nên bất lực. Đôi khi, mọi lời nói cũng không thể giúp con người chạm đến nhau, không thể diễn tả hết những điều chất chứa trong lòng.
Dẫu muôn dòng chữ nghìn trang giấy
Lòng để làm sao đắp được bờ
Dù có viết hàng nghìn trang giấy, dù có xếp muôn dòng chữ, cũng không thể lấp đầy những khoảng trống trong tim. Có những tâm tư quá lớn, có những cảm xúc quá sâu, mà mọi câu chữ đều trở nên nhỏ bé và bất lực.
Đây chính là nỗi đau của những người yêu thơ, yêu chữ nghĩa – khi ngôn từ không còn đủ sức để ôm trọn cảm xúc, khi lòng người rộng lớn đến mức thơ cũng không thể làm bờ bến chở che.
Một nhịp cầu nối những tâm hồn đồng điệu
Thì đấy là thơ riêng tặng nhau
Không gian khoảnh khắc vạn muôn màu
Những bài thơ không có tên ấy không phải để ai cũng đọc, mà là những dòng tâm tình chỉ dành cho những tâm hồn đồng điệu. Một ánh mắt hiểu nhau, một khoảnh khắc chạm vào lòng nhau, đôi khi còn có ý nghĩa hơn vạn câu nói, hơn cả những bài thơ được viết nên.
Thời gian khoảnh khắc như vô tận
Bắc cả thiên thu một nhịp cầu
Chỉ một khoảnh khắc thôi, nhưng lại hóa thành vĩnh cửu. Chỉ một giây phút, nhưng có thể kết nối cả thiên thu.
Tình cảm giữa con người với nhau, có khi không cần nói nhiều, không cần phải tỏ bày. Chỉ cần một sự thấu hiểu, chỉ cần một lần chạm đến trái tim nhau, cũng đủ để xây nên một cây cầu nối hai tâm hồn, vượt qua mọi ranh giới của thời gian và không gian.
“Thơ không có tên” – Khi lời không cần nói cũng hóa vĩnh hằng
“Thơ không có tên” là một bài thơ đầy trầm lắng, đầy day dứt, nhưng cũng đầy sâu sắc về những cảm xúc không thể gọi thành lời. Nó nhắc nhở ta rằng:
- Không phải lúc nào thơ cũng cần câu chữ, vì có những bài thơ chỉ có thể được cảm nhận bằng trái tim.
- Không phải lúc nào cũng có thể nói hết lòng mình, vì có những điều chỉ những ai đồng điệu mới có thể hiểu.
- Không phải mọi khoảnh khắc đều trôi qua vô nghĩa, vì có những giây phút dù nhỏ bé nhưng lại trở thành vĩnh cửu, kết nối những tâm hồn với nhau mãi mãi.
Và có lẽ, chính những bài thơ không có tên, không có lời, lại là những bài thơ chạm đến trái tim người đọc nhiều nhất, bởi nó để lại một khoảng trống – để ta tự điền vào bằng những cảm xúc của chính mình.
*
Trần Huyền Trân – Nhà thơ, nhà hoạt động sân khấu tài hoa
Trần Huyền Trân (1913-1989), tên thật là Trần Đình Kim, là một nhà thơ và nhà hoạt động sân khấu xuất sắc của Việt Nam. Ông không chỉ ghi dấu ấn sâu đậm trong phong trào Thơ mới với những vần thơ đầy trăn trở và suy tư, mà còn có những đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thống, đặc biệt là chèo.
Bắt đầu sáng tác từ năm 20 tuổi, thơ ông mang màu sắc tự sự, hoài niệm, phản ánh những nỗi niềm lữ khách cô độc, trăn trở về thân phận con người và thời cuộc. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến như Mười năm, Độc hành ca, Uống rượu với Tản Đà, Mưa đêm lều vó…
Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, hoạt động trong lĩnh vực sân khấu và dành trọn tâm huyết để gìn giữ nghệ thuật chèo. Ông là một trong những người sáng lập nhóm chèo Cổ Phong, sưu tầm và chỉnh lý nhiều tích chèo cổ nổi tiếng như Xúy Vân giả dại, Quan Âm Thị Kính…, góp phần gìn giữ tinh hoa sân khấu dân gian Việt Nam.
Di sản nghệ thuật của Trần Huyền Trân vô cùng phong phú, trải dài trên nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, chèo. Một số tác phẩm nổi bật gồm: Thơ: Mười năm, Độc hành ca, Mưa đêm lều vó… Tiểu thuyết, truyện ngắn: Tấm lòng người kỹ nữ (1941), Người ngàn thu cũ (1942), Sau ánh sáng (1940)… Kịch, chèo: Lên đường, Tú Uyên Giáng Kiều, Lý Thường Kiệt, Hoàng Văn Thụ, Lửa Hà Nội…
Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những cống hiến to lớn đối với văn hóa Việt Nam.
Cuộc đời của Trần Huyền Trân là sự giao thoa giữa thi ca và sân khấu, giữa trữ tình và chính luận, để lại một di sản quý giá cho hậu thế.
Viên Ngọc Quý.