Cảm nhận về bài thơ: Trung Tân ngụ hứng – Nguyễn Bỉnh Khiêm

Trung Tân ngụ hứng

Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nhân thôn quán tây nam,
Giang thuỷ quán tây bắc.
Trung hữu bán mẫu viên,
Viên tại Vân Am trắc.
Luân ưởng trần bất đáo,
Hoa trúc thủ tự thực.
Trượng lý tập hoa hương,
Trản giả xâm hoa sắc.
Điểu tị phanh trà yên,
Ngư thôn tẩy nghiễn mặc.
Khiển hứng nhậm thi cuồng,
Phù suy da hữu lực.
Nhân xảo, ngả giả chuyết,
Thuỳ tri chuyết giả đức,
Ngã chuyết, nhân giả xảo,
Thuỳ tri xảo giả tặc.
Kiền khôn tĩnh lý suy,
Cổ kim nhàn trung đắc.
Hiểm mạc hiểm thế đồ,
Bất tiển tiện kinh cúc.
Nguy mạc nguy nhân tâm,
Nhất phóng tiện quỷ quắc.
Quân tử cầu sở chỉ,
Chí thiện tư vi cực.

Dịch nghĩa

Phía tây nam quán ấy có làng xóm,
Phía tây bắc quán ấy có sông ngòi.
Ở giữa có nửa mẫu vườn,
Vườn ở bên am Bạch Vân.
Bụi ngựa xe không bám vào được cái am ấy,
Hoa và trúc ở trong vườn chính tay tự trồng lấy.
Khi chống gậy, lê dép ra vườn chơi thì hương thơm của hoa bám vào gậy, dép
Khi nâng chén rượu để thưởng thức thì sắc hoa ánh vào chén rượu.
Khí đun nước để pha trà thì loài chim lánh khói,
Khi rửa nghiên mực, mực chảy xuống thì loài cá nuốt lấy.
Khi thích chí thì ngâm thơ tràn để tiêu khiển,
Lại nhờ có chén rượu nhắp cho hăng hái để đỡ sức già yếu.
Người ta khéo léo mà mình lại vụng về,
Biết đâu vụng về ấy lại là một đức tốt!
Ta khờ dại mà người thì xảo quyệt,
Biết đâu lòng xảo quyệt ấy lại là một cái hại lớn!
Khi tĩnh, suy lẽ tạo hoá,
Lúc nhàn, ngẫm việc xưa nay.
Không gì hiểm bằng đường đời,
Nếu không biết cắt bỏ đi thì toàn là chông gai cả.
Không gì nguy hiểm bằng lòng người,
Nếu không biết giữ gìn mà buông phóng ra thì hoá thành quỷ quái cả.
Vì vậy, người quân tử phải tìm nơi đứng cho vững,
Lấy điều “chí thiện” làm tiêu chuẩn tuyệt đối.


Quán Trung Tân do Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi về ở ẩn tại quê nhà, đã cùng các vị bô lão dựng lên, vừa là nơi “thắng địa” (vùng đất đẹp hơn cả), vừa là nơi nghỉ ngơi cho những người qua đường. Quán Trung Tân đã trở thành đề tài quen thuộc trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài thơ được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.

*

Thơ ngụ hứng ở quán Trung Tân

(Bản dịch của Ngô Lập Chi)

Sông ngòi vòng tây bắc,
Làng xóm bọc tây nam.
Giữa có nửa mẫu vườn,
Vườn ở bên Vân am.
Xe ngưa bụi không đến,
Hoa, trúc tay tự trồng.
Gậy, dép bén mùi hoa,
Chén, cốc ánh sắc hồng.
Rửa nghiên, cá nuốt mực,
Pha trà, chim lánh khói.
Ngâm thơ thừa tiêu dao,
Uống rượu thêm khoan khoái.
Người xảo ta thì vụng,
Ấy vụng thế mà hay!
Ta vụng người thì xảo.
Ấy xảo thế mà gay!
Tính suy lẽ trời đất,
Nghiền ngẫm việc xưa nay:
Đường đời rất ghập ghềnh,
Chông gai cần phải cắt.
Lòng người rất hiểm nghèo,
Buông ra liền quái quắc.
Quân tử biết răn mình,
Chí thiện làm mẫu mực.

*

“Trung Tân ngụ hứng: Từ Lối Sống Bình Dị Đến Triết Lý Cuộc Đời”

Bài thơ “Trung Tân ngụ hứng” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, qua bản dịch của Ngô Lập Chi, mang đến cho người đọc một bức tranh giản dị về cuộc sống của tác giả, nhưng cũng hàm chứa một triết lý sâu sắc về cách sống, nhân cách và sự phản ánh lẽ đời. Nhìn qua từng câu thơ, ta như thấy một bức tranh tĩnh lặng của một cuộc sống thanh tao và đầy trí tuệ, nơi sự giản dị và khiêm nhường được thể hiện qua từng hành động nhỏ nhất.

Cuộc sống bình dị nhưng tràn đầy sự tự tại

Mở đầu bài thơ, Trạng Trình đã miêu tả cảnh vật xung quanh ngôi nhà của mình, nơi đất đai, vườn tược và cảnh vật hòa quyện với nhau một cách yên bình:

“Sông ngòi vòng tây bắc,
Làng xóm bọc tây nam.
Giữa có nửa mẫu vườn,
Vườn ở bên Vân am.”

Những câu thơ này như đưa người đọc vào một không gian yên ả, nơi có dòng sông uốn quanh, làng mạc ẩn mình trong sự bao bọc của thiên nhiên. “Nửa mẫu vườn” – đó không phải là một khu đất rộng lớn, nhưng chính trong sự vừa đủ ấy lại là nơi để người ta tìm thấy sự bình an. Vân am, một nơi ẩn dật, là hình ảnh tượng trưng cho một không gian không chịu ảnh hưởng của thế gian, nơi con người có thể sống trong tự tại, trầm lắng.

Với Trạng Trình, cuộc sống không phải là sự hối hả, bon chen mà là sự hòa hợp với thiên nhiên và tìm lại sự an yên trong tâm hồn. Hoa, trúc tự tay trồng, gậy, dép cũng mang theo mùi hoa, và những vật dụng như chén, cốc cũng phản chiếu một màu sắc tinh tế, đều mang dấu ấn của sự giản dị và thanh tao:

“Xe ngưa bụi không đến,
Hoa, trúc tay tự trồng.
Gậy, dép bén mùi hoa,
Chén, cốc ánh sắc hồng.”

Từ những chi tiết nhỏ như vậy, tác giả như muốn nhắn nhủ rằng, sự thanh tịnh không cần phải đến từ bên ngoài, mà là từ chính sự giản đơn, thuần khiết của cuộc sống hằng ngày.

Tình đời và triết lý sống sâu sắc

Trong khi miêu tả cuộc sống bên ngoài, Trạng Trình không quên chia sẻ với chúng ta những suy ngẫm về lẽ đời, về con người, về cái hay và cái dở của cuộc sống. Ông đối chiếu giữa “vụng” và “xảo”, giữa những tính toán của người đời và sự chân thật của mình:

“Người xảo ta thì vụng,
Ấy vụng thế mà hay!
Ta vụng người thì xảo,
Ấy xảo thế mà gay!”

Câu thơ này như một lời phản ánh về những mâu thuẫn trong cuộc sống: người khéo léo có thể thành công, nhưng cái khéo ấy lại không phải lúc nào cũng dẫn đến điều tốt đẹp. Ngược lại, sự vụng về đôi khi lại tạo nên những kết quả bất ngờ, tốt đẹp. Chính từ những mâu thuẫn này, Trạng Trình muốn nhấn mạnh rằng sự thật và lẽ phải không phải lúc nào cũng được thể hiện qua vẻ ngoài, mà đôi khi là ở những điều giản dị, mộc mạc.

Triết lý cuộc đời – Sự thử thách và sự giác ngộ

Nhưng điều đáng quý nhất trong bài thơ là sự nghiêm túc trong những suy ngẫm về đời người, về lẽ phải và đạo đức. Trạng Trình không chỉ sống một cuộc đời giản dị, mà còn chiêm nghiệm về bản chất của con người và cuộc đời:

“Tính suy lẽ trời đất,
Nghiền ngẫm việc xưa nay:
Đường đời rất ghập ghềnh,
Chông gai cần phải cắt.”

Trạng Trình nhìn nhận cuộc đời là một con đường chông gai, đầy thử thách. Những khó khăn, những chông gai ấy không phải là điều không thể vượt qua, mà chỉ cần con người kiên định, cần cù và có chí hướng rõ ràng. “Cắt” những chông gai ấy không phải là bỏ cuộc hay trốn tránh, mà là vượt qua bằng sự kiên nhẫn và sự sáng suốt.

Tiếp đó, ông nói về lòng người:

“Lòng người rất hiểm nghèo,
Buông ra liền quái quắc.”

Lòng người, theo Trạng Trình, là điều khó nắm bắt, dễ bị thay đổi, và đôi khi rất phức tạp. Nhưng nếu con người luôn duy trì sự khiêm tốn và giữ gìn đức hạnh, sự sáng suốt trong tâm hồn sẽ giúp họ không bị lạc lối.

Cuối cùng, Trạng Trình kết luận:

“Quân tử biết răn mình,
Chí thiện làm mẫu mực.”

Chí thiện là một phẩm hạnh mà con người phải luôn giữ gìn và nuôi dưỡng. Người quân tử không chỉ là người hiểu đạo lý, mà còn phải biết răn mình, biết giữ vững đức hạnh trong mọi tình huống.

Kết luận: Sống giản dị, sống đạo đức

Bài thơ “Trung Tân ngụ hứng” của Trạng Trình, qua bản dịch của Ngô Lập Chi, không chỉ là những hình ảnh về một cuộc sống giản dị mà còn là những triết lý sâu sắc về cách sống đạo đức, kiên định và khiêm tốn. Từ một không gian sống yên bình, tác giả gửi gắm thông điệp rằng, trong cuộc đời đầy biến động, điều quan trọng nhất là giữ vững được chí hướng, sống trong sự thật và tìm kiếm sự an nhiên trong tâm hồn.

Cuộc sống có thể đầy rẫy những thử thách, nhưng chính trong những thử thách ấy, con người cần phải vững vàng, giữ gìn đức hạnh và luôn khiêm tốn để không bị lạc lối.

*

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một danh nhân văn hóa, nhà thơ, nhà triết học và nhà tiên tri lỗi lạc của Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Văn Đạt, quê ở Hải Phòng, đỗ Trạng nguyên năm 1535 dưới triều Mạc và từng giữ chức quan lớn trong triều đình. Tuy nhiên, do bất mãn với thời cuộc, ông lui về ở ẩn, lập am Bạch Vân và trở thành một bậc hiền triết, được nhân dân gọi là “Trạng Trình”.

Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng với những lời tiên đoán qua tập “Sấm Trạng Trình”, đồng thời để lại nhiều tác phẩm thơ văn sâu sắc thể hiện tư tưởng đạo lý, nhân sinh. Ông có ảnh hưởng lớn đến các triều đại và là một trong những trí thức kiệt xuất của Việt Nam thời phong kiến.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *