Cảm nhận về bài thơ: Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong – Nguyễn Đình Chiểu

Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong

Hỡi ôi!
Tủi phận biên manh;
Căm loài dương tặc.

Ngoài sáu tỉnh hãy ngợi câu án đổ, dân nhờ vua đặng lẽ sống vui;
Trong một phương sao mắc chữ lục trầm, người vì nước rủ nhau chết ngặt!

Nhớ các linh xưa:
Tiếng đồn trung nghĩa đến xa;
Thói giữ cương thường làm chắc.

Từ thủa Tây qua cướp đất, xưng tân trào gây nợ oan cừu;
Chẳng qua dân mắc nạn trời, hoài cựu chúa mang lời phản trắc.

Các bậc sĩ nông công cổ, liền mang tai với súng song tâm;
Mấy nơi tổng lý xã thôn, đều mắc hại cùng cờ tam sắc.

Bọn tam giáo quen theo đường cũ, riêng than bất hạnh mang nghèo;
Bầy cửu lưu cứ nối nghề xưa, thầm tủi vô cô chịu cực.

Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quay treo;
tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật.

Trải mười mấy năm trầy khốn khó, bị khảo, bị tù, bị đày, bị giết, trẻ già nghe nào xiết đến tên;
Đem ba tấc hơi mọn bỏ liều, hoặc sông hoặc biển hoặc núi hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt.

Khá thương thay!
Dân sa nước lửa chầy ngày;
Giặc ép mỡ giàu hết sức.

Đành những kẻ cha thù anh oán, nhảy vòng báo ứng đã cam;
Cực cho người vợ goá con côi, gây đoạn thảm sầu khôn dứt.

Man mác trăm chiều tâm sự, sống những lo trả nợ cho đời;
Phôi pha một mảnh hình hài, thác rồi bỏ làm phân cho đất.

Nghĩ nỗi anh hùng nạn nước, bãi khô lâu nào mấy kẻ khóc than;
Tưởng câu danh lợi tuồng đời, trường khối lỗi mặc dầu ai náo nức.

Trời hỡi trời!
Lòng nghĩa dân phải với ngô quân;
Tiếng nghịch đảng lỗi cùng địch vức.

Gần Côn Lôn xa đại hải, máu thây trôi nổi ai nhìn;
Hàng cai đội bậc quản cơ, xương thịt rã rời ai cất?

Sống thời chịu nắng sương trời một góc, khó đem sừng ngựa hẹn quy kỳ;
Thác rồi theo mưa ngút biển muôn trùng, khôn mượn thư nhàn đưa tin tức.

Thấp thoáng hồn hoa phách quế, lòng cố hương gửi lại bóng trăng thu;
Bơ vơ nước quỷ non ma, hơi âm sát về theo luồng gió bấc.

Như vậy thì:
Số dẩu theo sáu nẻo luân hồi;
Khí sao để trăm năm uất ức.

Trời Gia Định ngày chiều ráng bắn, âm hồn theo cơn bóng ác dật dờ;
Đất Biên Hoà đêm vắng trăng lờ, oan quỷ nhóm ngọn đèn trời hiu hắt.

An Hà quận đang khi bạch trú, gió cây vụt thổi cát xoáy bay con trốt dậy bên thành;
Long Tường Giang mỗi lúc hoàng hôn, khói nước sông mù, lửa huỳnh nháng binh ma chèo dưới vực.

Nhìn mất chặng cờ lau trống sấm, mỉa mai trận nghĩa gửi binh tình;
Thảm đòi ngàn ngựa gió xe mây, mường tượng vong linh về chiến lật.

Thôi!
Người lạc phách theo miền giang hải, cung ngao lẩn thẩn, dành một câu thân thế phù trầm;
Kẻ du hồn ở cõi sơn lâm, luỹ kiến đồn ong, còn bốn chữ “âm dung phảng phất”.

Ôi!
Sống muốn cho an;
Thác sao rằng bức?

Dẫu sớm thấy ngọn cờ điếu phạt, phận thần dân đâu chẳng toan còn;
Chưa kịp nghe tiếng trống an nhương, nghĩa quân phụ nào dè chết mất.

Hoặc là sợ như đất triêu Tần mộ Sở, cuộc can qua sông cũng ở ghê mình;
Hoặc là e như trời nam Tống bắc Kim, đường binh cách thác đi cho khuất mặt.

Tiếc non nước ấy nhân dân dường ấy, gây sự này nào thấy phép tẩy oan;
Biết cha mẹ đâu tộc loại ở đâu, chạnh tình đó mới ra ơn điếu tuất.

Tuy uổng mệnh hãy chờ khi sách mệnh, sẵn vòng quả báo vấn vương;
Song oan hồn chưa có kẻ chiêu hồn, khiến tấm linh bài bực tức.

Nhớ phận áo cơm đất nước, trọn mấy năm ngóng cổ trông quan;
So bề mồ mả ông cha, còn hơn đứa đành lòng theo giặc.

Đến nay:
Cám cảnh Nam Trung;
Trách lòng tạo vật.

Ví như sĩ sinh đời Đông Tấn, nay đánh Hồ mai dẹp Yết, thời phơi gan trong đám tinh chiên;
Nào phải dân ở cõi U Yên, sớm đầu Hạ, tối về Liêu, mà trây máu bên đường kinh cức.

Phải trời cho mượn cán quyền phá lỗ, Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh;
Ít người đặng xem tấm bảng phong thần, Phan học sĩ hết lòng mưu quốc.

Muôn dặm giang sơn triều thánh đố, gian sơn còn hơi chính đều còn;
Nghìn năm hồn phách nạn dân này, hồn phách mất tiếng oan nào mất.

Dẫu đặng ơn nhuần khô cốt, cơn trị bình nào thấy đạo vương;
Muốn cho phép vớt linh hồn, buổi ly loạn khôn cầu kinh Phật.

Ôi!
Trời xuống nàn quỷ trắng mấy năm;
Người uống giận suối vào vàng lắm bực.

Cảnh Nam thổ phơi màu hoa thảo, đọng tình oan nửa úa nửa tươi;
Cõi Tây thiên treo bức vân hà, kết hơi oán chặng thưa chặng nhặt.

Ngày gió thổi lao xao tin dã mã, thoắt nhóm thoắt tan thoắt lui thoắt tới, như tuồng bán dạng linh tinh;
Đêm trăng lời giéo giắt tiếng đề quyên, dường hờn dường mến dường khóc dường than, đòi đoạn tỏ tình oan khuất.

Xưa nghe có bến sông Vị Thuỷ, lấy lễ nhân đầu tế lũ hồn oan;
Nay biết đâu bãi cát Trường Sa, mượn của âm phù độ bè quỷ ức.

Đốt lọn nhang trầm trời đất chứng, chút gọi là làm lễ vãn vong;
Đọc bài văn tế quỷ thần soi, xin hộ đó theo đường âm chất.

Hỡi ôi! Thương thay! Có linh xin hưởng.


1874 (có tài liệu ghi 1884)

(Tiêu đề có nơi chép là Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh. Lục tỉnh là tên gọi miền Nam Việt Nam thời nhà Nguyễn, gồm Gia Định, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.)

(Sau khi bình định xong miền Nam, thực dân Pháp nghe tiếng Nguyễn Đình Chiểu được nhân dân kính trọng nên tìm cách lôi kéo để thu phục lòng dân, nhưng nhiều lần ông đều thẳng thừng từ chối. Thấy lôi kéo không được, tên thống đốc Nam Kỳ cho tỉnh trưởng Bến Tre là Michel Ponchon đến săn sóc, hỏi ông muốn gì nhà nước sẽ giúp cho. Ông chỉ xin được điếu tế một tuần những vong hồn người Việt mộ nghĩa. Tên tỉnh trưởng bằng lòng nhưng đề nghị phần tổ chức thuộc về y. Chiều trước hôm lễ một ngày, ông ra nhà lồng chợ, sai con thắp một bó nhang trên bàn thờ để mấy chén nước lạnh, rồi phủ phục đọc bài tế này. Dân chúng kéo đến xem rất đông, ông đọc đến đâu mọi người đều sa lệ đến đó. Đọc xong, ông nằm vật ra khóc và xỉu đi, người nhà phải vực xuống thuyền chở về. Sáng hôm sau, tên tỉnh trưởng cho người đem cờ xí, lễ vật đến tổ chức theo kế hoạch thì việc đã xong rồi.)

*

Khúc Văn Tế Cho Những Linh Hồn Bất Khuất

Khi đọc Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong của Nguyễn Đình Chiểu, lòng ta như bị bóp nghẹt bởi những dòng bi thiết, xót xa cho những người đã ngã xuống vì nước. Không chỉ là một bài văn tế đơn thuần, đây còn là bản cáo trạng đanh thép lên án quân xâm lược, là khúc tráng ca khắc họa khí phách kiên cường của nhân dân Nam Bộ trong cuộc chiến chống ngoại xâm.

Tiếng khóc giữa trời Nam

Mở đầu bài văn tế là những tiếng than đầy ai oán:

“Tủi phận biên manh,
Căm loài dương tặc.”

Chỉ hai câu ngắn ngủi, nhưng đã gói gọn cả một nỗi uất nghẹn. Người dân mất nước không chỉ đau vì thân phận trôi dạt, mà còn căm hận những kẻ ngoại bang đã chà đạp lên giang sơn gấm vóc.

Nguyễn Đình Chiểu gọi tên từng vùng đất: Gia Định, Biên Hòa, An Giang… những nơi đã nhuốm máu của bao người con đất Việt. “Mười mấy năm trầy khốn khó”, những trận chiến dai dẳng đã khiến biết bao gia đình ly tán, biết bao anh hùng phải bỏ mạng nơi chiến trường.

Hồn tử sĩ và nỗi oan khiên chưa dứt

Không chỉ khắc họa sự hi sinh của nghĩa sĩ, Nguyễn Đình Chiểu còn dựng lên một bức tranh tang tóc, nơi hồn tử sĩ vẫn còn vương vấn:

“Thấp thoáng hồn hoa phách quế, lòng cố hương gửi lại bóng trăng thu;
Bơ vơ nước quỷ non ma, hơi âm sát về theo luồng gió bấc.”

Những vong linh ấy, dù đã khuất nhưng vẫn không thể yên nghỉ. Họ ngã xuống khi chưa kịp thấy ngày quê hương sạch bóng quân thù, chưa kịp hưởng vinh quang của độc lập. Câu thơ như một lời ai oán giữa trời đất, một tiếng nấc nghẹn ngào thay cho những linh hồn còn vất vưởng.

Lời tố cáo và lời thề giữ nước

Bên cạnh nỗi đau, bài văn tế cũng là một bản cáo trạng lên án sự tàn bạo của quân Pháp:

“Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quay treo;
Tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật.”

Những hình ảnh đầy đau thương ấy tố cáo chiến tranh phi nghĩa, nơi quân thù không chừa một ai.

Nhưng giữa đau thương, khí phách Việt Nam vẫn sáng ngời. Nguyễn Đình Chiểu nhắc đến những anh hùng như Trương Định, Phan Thanh Giản – những người đã cống hiến cả đời mình cho tổ quốc. Ông tin rằng dù thân xác họ có tan biến, nhưng tinh thần nghĩa sĩ vẫn sẽ còn mãi với non sông.

Lời kết

Nguyễn Đình Chiểu đã không cầm gươm ra trận, nhưng ông dùng văn chương để chiến đấu. Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong không chỉ là một lời tiễn biệt, mà còn là một lời nhắc nhở: nợ nước chưa trả xong, oan khiên chưa được gột rửa. Đọc bài văn tế này, ta không chỉ thương cảm, mà còn thấy trong tim mình bừng lên một ngọn lửa – ngọn lửa của lòng yêu nước, của tinh thần bất khuất mà bao thế hệ người Việt đã giữ gìn.

*

Nguyễn Đình Chiểu (1822–1888): Nhà thơ lớn, Danh nhân văn hóa thế giới

Nguyễn Đình Chiểu, tục gọi là cụ Đồ Chiểu, là một nhà thơ yêu nước tiêu biểu của Nam Bộ trong thế kỷ 19. Ông sinh ngày 1/7/1822 tại Gia Định (nay thuộc TP.HCM) trong một gia đình nhà nho. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến cố, từ mất mẹ, mù lòa đến cảnh nước mất nhà tan, nhưng ông vẫn giữ vững đạo đức và lòng yêu nước.

Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, và Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca. Thơ văn của ông thể hiện quan niệm “văn dĩ tải đạo,” luôn hướng tới đề cao chính nghĩa, lòng yêu nước và phẩm chất đạo đức.

Với những đóng góp xuất sắc cho văn hóa và tinh thần dân tộc, ngày 24/11/2021, ông được UNESCO vinh danh là Danh nhân Văn hóa Thế giới. Hiện khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại Bến Tre là di tích quốc gia đặc biệt, trở thành điểm đến tri ân của nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý.

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *