Cảm nhận về bài thơ: Văn tế Trương Định – Nguyễn Đình Chiểu

Văn tế Trương Định

Hỡi ơi!
Giặc cỏ bò lan;
Tướng quân mắc hại.

Ngọn khói Tây bang đóng đó, cõi biên còn trống đánh sơn lâm;
Bóng sao Võ Khúc về đâu, đêm thu vắng tiếng canh dinh trại.

Nhớ tướng quân xưa:
Gặp thuở bình cư;
Làm người chí đại.

Từ thuở ở hàng viên lữ, pháp binh trăm trận đã làu;
Đến khi ra quản đồn điền, võ nghệ mấy ban cũng trải.

Lối giặc đánh, tới theo quan tổng, trường thi, mô súng, trọn mấy năm ra sức tranh tiên;
Lúc cuộc tan, về huyện Tân Hoà, đắp luỹ đồn binh, giữ một góc bày lòng địch khái.

Chợt thấy cánh buồm lai sứ, việc giảng hoà những tưởng rằng xong;
Đã đành tấm giấy tựu phong, phận thần tử há đâu dám cãi.

Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền;
Theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại.

Gồm ba tỉnh dựng cờ phấn nghĩa, sĩ phu lắm kẻ xui theo;
Tóm muôn dân gầy sổ mộ binh, luật lệnh mấy ai dám trái.

Văn thì nhờ tham biện, thương biện, giúp các cơ bàn bạc nhung công;
Võ thì dùng tổng binh, đốc binh, coi các đạo sửa sang khí giái.

Khá thương ôi!
Tiền vàng ơn chúa, trót đã rỡ ràng;
An bạc mưu binh, nào từng trễ nải.

Chí lăm dốc cờ xuê lộ bố, chói sắc giữa trào;
Ai muốn đem gươm báu Can Tương chôn hơi ngoài ải.

Há chẳng thấy:
Sức giặc Lang Sa;
Nhiều phương quỷ quái.

Giăng dưới nước tàu đồng tàu sắt, súng nổ quá bắp rang;
Kéo trên bờ ma ní, ma tà, đạn bắn như mưa vãi.

Dầu những đại đồn thuở trước, cũng khó toan đè trứng nghìn cân;
Huống chi cô luỹ ngày nay, đâu dám chắc treo mành một giải.

Nhưng vậy mà: Vì nước tấm thân đã nấy, còn mất cũng cam;
Giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại.

Rạch Lá, Gò Công mấy trận, người thấy đã kinh;
Cửa Khâu, Trại Cá khắp nơi, ai nghe chẳng hãi.

Nào nhọc sức họ tào biên sổ, lương tiền nhà ruộng, cho một câu háo nghĩa lạc quyên;
Nào nhọc quan võ khố bình cân, thuốc đạn ghe buôn, quyền bốn chữ giao thương đạo tải.

Núi đất nửa năm ngăn giặc, nào thành đồng luỹ sắt các nơi;
Giáo tre ngàn dặm đánh Tây, là ngựa giáp xe nhung mấy cái.

Ôi!
Chí dốc đem về non nước cũ, ghe phen hoạn nạn, cây thương phá lỗ chưa lìa;
Nào hay trở lại cảnh quê xưa, nhắm mắt lâm chung, tấm bảng phong thần vội quải.

Chạnh lòng tướng sĩ, thương quan tướng, nhắc quan tướng, chiu chít như gà;
Bậc trí, nhân dân, giận thằng tà, mắng thằng tà, om sòm như nhái.

Ôi!
Sự thế hỡi bên Hồ bên Hán, bao giờ về một mối xa thư?
Phong cương còn nửa Tống nửa Liêu, đâu nỡ hại một tay tướng soái.

Nào phải kẻ tán sư đầu giặc, mà để nhục miếu đường;
Nào phải người kiểu chiếu đánh phiên, mà gây thù biên tái.

Hoặc là chuộng một lời hoà nghị, giận nam phiên phải bắt Nhạc Phi về;
Hoặc là do trăm họ hoành la, hờn U địa chẳng cho Dương Nghiệp lại.

Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang san ba tỉnh luống thêm buồn;
Biết thuở nào cờ phất trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái.

Còn chi nữa! Cõi cô thế riêng than người khóc tượng, nhắm mắt rồi, may rủi một trường không;
Thôi đã đành! Bóng tà dương gấm ghé kẻ day đòng, quày gót lại, hơn thua trăm trận bãi.

Ôi!
Làm ra cớ ấy, tạo hoá ghét nhau chi?
Nhắc tới đoạn nào, anh hùng rơi luỵ mãi.

Cuộc trung nghĩa hai năm làm đại tướng, nhọc nhằn vì nước, nào hờn tiếng thị tiếng phi;
Cõi yên hà một chức chịu lãnh binh, lây lất theo thời, chưa chắc đâu thành đâu bại!

Khóc là khóc nước nhà cơn bấn loạn, hôm mai vắng chúa, thua buồn nhiều nỗi khúc nôi;
Than là than bờ cõi lúc qua phân, ngày tháng trông vua, ngơ ngẩn một phương tớ dại.

Tướng quân còn đó, các nơi đạo tặc thảy kiêng dè;
Tướng quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa binh thêm bái xái.

Nào đã đặng mấy hồi nơi thích lý, màn hùm che mặt rằng xuê;
Thà chẳng may một giấc chốn trường sa, da ngựa bọc thây mới phải.

Ôi!
Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng anh hùng gặp lúc gian truân;
Đất Gò Công cây cỏ ủ ê, cám niềm thần tử hết lòng trung ái.

Xưa còn làm tướng, dốc rạng giồi hai chữ bình Tây;
Nay thác theo thần, nên dâng hộ một câu phúc thái.


1864

*

Trương Định – Một Đời Trung Nghĩa, Một Dáng Hào Hùng

Có những người sinh ra để sống một đời bình lặng, nhưng cũng có những con người được định sẵn để trở thành huyền thoại. Trương Định là một trong những con người như thế—một vị tướng không ngai, một biểu tượng bất diệt của lòng yêu nước. Nguyễn Đình Chiểu, với tấm lòng son sắt, đã khắc họa hình tượng Trương Định qua Văn tế Trương Định, biến bài văn tế thành một khúc tráng ca bất hủ về tinh thần quật khởi của dân tộc.

Người tướng quân không ngai, nhưng có lòng dân

Trương Định vốn là một người của triều đình, nhưng khi đất nước lâm nguy, ông không chọn con đường vinh thân phì gia, mà quyết định đứng về phía nhân dân, dốc lòng chống giặc:

“Theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại.”

Ông không vì một đạo chỉ của triều đình mà bỏ mặc dân đen dưới gót giày xâm lược. Khi vua Tự Đức ban lệnh bãi binh, ông đã chọn ở lại, kiên quyết cầm quân kháng chiến. Đó là quyết định của một vị tướng không màng danh lợi, chỉ biết hy sinh vì đất nước.

Trận mạc gian truân, lòng son không đổi

Bài văn tế khắc họa rõ sự chênh lệch khốc liệt giữa quân ta và quân giặc. Quân Pháp hùng mạnh với tàu đồng, tàu sắt, súng bắn như mưa:

“Giăng dưới nước tàu đồng tàu sắt, súng nổ quá bắp rang;
Kéo trên bờ ma ní, ma tà, đạn bắn như mưa vãi.”

Trong khi đó, nghĩa quân chỉ có những vũ khí thô sơ, những đồn lũy đất, nhưng họ vẫn chiến đấu với lòng quả cảm, không ngại hiểm nguy:

“Giáo tre ngàn dặm đánh Tây, là ngựa giáp xe nhung mấy cái.”

Sự chênh lệch về sức mạnh không làm nghĩa quân nhụt chí, mà chỉ càng hun đúc thêm lòng căm hận và ý chí quật cường. Tướng quân Trương Định dẫn đầu những trận đánh vang dội, từ Rạch Lá, Gò Công đến Cửa Khâu, Trại Cá, khiến quân Pháp nhiều phen khiếp vía.

Cái chết bi tráng và nỗi đau người ở lại

Nhưng không phải cứ kiên cường là sẽ chiến thắng. Trong một thế trận không cân sức, Trương Định cuối cùng cũng ngã xuống. Cái chết của ông không chỉ là mất mát của một cá nhân, mà là nỗi đau chung của cả một dân tộc:

“Tướng quân còn đó, các nơi đạo tặc thảy kiêng dè;
Tướng quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa binh thêm bái xái.”

Nhân dân khóc thương ông không chỉ vì sự hy sinh của một vị tướng mà còn vì mất đi một điểm tựa tinh thần. Sự ra đi của ông khiến trời đất Gò Công như u ám, cỏ cây cũng mang nỗi buồn:

“Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng anh hùng gặp lúc gian truân;
Đất Gò Công cây cỏ ủ ê, cám niềm thần tử hết lòng trung ái.”

Thông điệp của Nguyễn Đình Chiểu

Bài văn tế không chỉ là một lời ai điếu, mà còn là một bản cáo trạng tố cáo sự bạo tàn của quân xâm lược và nỗi đau mất nước. Đồng thời, nó khẳng định một điều: những người như Trương Định có thể chết, nhưng tinh thần của họ sẽ sống mãi trong lòng dân tộc.

Văn tế Trương Định là một bài học về lòng trung nghĩa, về ý chí kiên cường, và về tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Dù lịch sử có xoay vần, dù thời thế có đổi thay, nhưng hình ảnh người anh hùng “bình Tây” vẫn còn mãi, như một ngọn lửa không bao giờ lụi tàn.

*

Nguyễn Đình Chiểu (1822–1888): Nhà thơ lớn, Danh nhân văn hóa thế giới

Nguyễn Đình Chiểu, tục gọi là cụ Đồ Chiểu, là một nhà thơ yêu nước tiêu biểu của Nam Bộ trong thế kỷ 19. Ông sinh ngày 1/7/1822 tại Gia Định (nay thuộc TP.HCM) trong một gia đình nhà nho. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến cố, từ mất mẹ, mù lòa đến cảnh nước mất nhà tan, nhưng ông vẫn giữ vững đạo đức và lòng yêu nước.

Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, và Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca. Thơ văn của ông thể hiện quan niệm “văn dĩ tải đạo,” luôn hướng tới đề cao chính nghĩa, lòng yêu nước và phẩm chất đạo đức.

Với những đóng góp xuất sắc cho văn hóa và tinh thần dân tộc, ngày 24/11/2021, ông được UNESCO vinh danh là Danh nhân Văn hóa Thế giới. Hiện khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại Bến Tre là di tích quốc gia đặc biệt, trở thành điểm đến tri ân của nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý.

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *