Nguyễn Trãi (1380 – 19 tháng 9 năm 1442), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà văn, người đã tham gia tích cực Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự xâm lược của nhà Minh (Trung Quốc) với Đại Việt. Khi cuộc khởi nghĩa thành công vào năm 1428, Nguyễn Trãi trở thành khai quốc công thần của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới” và là 1 trong 14 anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Gia Huấn Ca là một tập thơ vang danh của nhà thơ Nguyễn Trãi. Ông là bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Những trang thơ của ông gắn liền với lịch sử hay những chiêm nghiệm về cuộc đời sâu sắc.
Mục lục
1. Lời mở đầu
2. Dạy vợ con
3. Với cha mẹ
4. Với chồng
5. Với bạn hữu của chồng
6. Với chị em
7. Với trong họ ngoài làng
8. Với những khi sản dục
9. Với con cái
10. Với dâu rể
11. Thờ cùng
12. Dạy con ở cho có đức
13. Khuyên vợ chồng
14. Dạy học trò ở cho phải đạo
15. Khuyên học trò phải chăm học
***
Lời mở đầu
Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,
Hễ làm người dạy kỹ thì nên,
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào [1]
1. “Thiên lý tại nhân tâm”: lẽ phải ở lòng người.
**
Dạy vợ con
5. Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ,
Làm bài ca dạy vợ nhủ con:
Lời ăn nết ở cho khôn,
Chớ nên đa quá, đa ngôn [1] chút nào!
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,
10. Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông,
Một vừa hai phải thì xong,
Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì [2]
Khi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng,
Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến mình,
15. Hạt mưa chút phận lênh đênh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu. [3]
Kìa mấy kẻ làu làu tiết ngọc,
Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm.
Con hiền cha mẹ an tâm,
20. Một nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền. [4]
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,
Thấy mùi hoa bướm nghển, ong chào,
Miệng đời dê diếu biết bao,
Đông ra quốc pháp, nhục vào gia thanh [5]
25. Đem người trước lấy mình ngắm lại,
Khôn ba năm đừng dại một giờ,
Đua chi chén rượu câu thơ,
Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.
Đám dồi mỏ ra vào săn sóc,
30. Lại bài phu, tam cúc, đánh đinh,
Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh,
Tổ tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.
Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,
Khi tối tăm đèn phải phân minh,
35. Hoặc khi hội hát linh đình,
Được lời dạy đến thì mình hãy ra,
Ra phải có mẹ già em nhỏ,
Đừng đánh đàn, đánh lũ không hay.
Nói đừng chau mặt, chau mày,
40. Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!
Của tằn tiện, chắt chiu hàn gắn,
Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây!
Cũng đừng vắt nước cổ chày,
Tiếp tân [6] tế lễ là ngày nên hoang.
45. Ăn ở chớ lòng mang khoảnh khắc, [7]
Mua bán đừng điêu trác đong đưa.
Mua đừng ráo riết quá lừa,
Bán đừng bo xiết, ích ta hại người.
Chớ tắt mắt của người kém cỏi,
50. Đừng đảo điên có nói làm không.
Giàu sang cũng chớ khoe ngông,
Miễn mình ấm phận chớ lòng khinh ai.
Khó khăn chớ vật nài oán hối,
Hết bĩ rồi tới buổi thái lai [8]
55. Cầm cân, tạo hóa [9] đổi dời,
Giàu ba họ, khó ba đời [10] mấy ai ?
Đừng học cách tham lời đặt lãi,
Lợi kẻ cho thì hại kẻ vay,
Dễ dàng nợ phải lay nhay,
60. Đến đầu đũa quá, e cay đắng nhiều. [11]
Hoặc lỡ thiếu phải điều lĩnh tạm,
Dù ít nhiều liệu sớm tính xong,
Chẳng nên mê mẩn hơi đồng, [12]
Qua lần cho khỏi thì lòng mới nguôi.
65. Thói mách lẻo, ngồi rồi bỏ hết,
Hễ điều gì nói ít mới hay,
Lân la giắt rợ, giắt rây,
Đã hư công việc, lại dày tiếng tăm [13].
Việc chợ búa chăm chăm chúi chúi,
70. Buổi bán xong liệu vội ra về,
Cửa nhà trăm việc sớm khuya,
Thu va thu vén mọi bề mới xong.
Phòng những kẻ có lòng gian vặt,
Nhỡ xảy ra một mất mười ngờ,
75. Tiếc thầm đứng ngẩn, ngồi ngơ,
Đau buồn thôi lại đổ cho tại trời.
Từ chốn ở, nơi ngồi thay thảy,
Rác ngập đường nhìn vậy chan chan,
Ai vào rác ngập ước chân,
80. Bát mâm tơi tả chiếu chăn đầy giường,
Tuy khó rách, giữ gìn thơm sạch, [14]
Có hay gì chiếu lệch bụi nhơ,
Đồ ăn thức nấu cho vừa,
Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành.
85. Nghề bánh trái chiều thanh vẻ lịch,
Cũng học dần thói cách người ta,
Vá may giữ nếp đàn bà,
Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công. [15]
Thủa tại gia phải tòng phụ giáo [16]
90. Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên [17]
Lại là hiếu với tổ tiên,
Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.
Đồ cúng cấp hương trà tinh khiết, [18]
Theo lễ nghi khép nép, khoan thai,
95. Ăn nhiều ăn ít cho rồi,
Nhớ điều ghẻ lạnh lễ thôi lại về.
1. Bởi câu tục ngữ “đa ngôn đa quá”: năng nói năng lỗi.
2. Hai câu này ý nói sự ăn vận không đài điếm, một vừa hai phải là được chứ mớ nọ mớ kia, ngắn dài tha thướt có ích gì.
3. Ý nói đàn bà con gái như hạt mưa sa, cốt nhất là phải giữ gìn trinh tiết.
4. Bốn câu này là chỉ vào người biết giữ gìn trinh tiết.
5. Quốc pháp: pháp luật nhà nước; gia thanh: danh tiếng nhà mình. Bốn câu này trỏ vào hạng người lơ lẳng.
6. Tiếp đãi khách khứa bạn hữu. Tế lễ: tế thần hay thờ cúng gia tiên, ngày giỗ, ngày chạp v.v…
7. Chốc lát, không được lâu bền.
8. Bởi câu “bĩ cực thái lai”.
9. Tức là trời, nhưng khi nói tạo vật hay hóa công cũng thế.
10. Ý nói không ai khó lâu, giàu bền.
11. Ý nói công nợ nên dễ dàng nhẹ nhõm, không nên cay nghiệt ráo riết quá mà có khi xảy ra chuyện không hay.
12. Bởi chữ “đồng sú”: hơi tiền, câu này cũng như câu “Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê” trong Truyện Kiều.
13. Ý nói nếu dây dưa chỉ tổ hỏng việc mà còn mang tiếng.
14. Câu này cũng như câu tục ngữ “đói cho sạch rách cho thơm”.
15. Sự làm lụng bằng chân tay khéo léo của đàn bà con gái. Nữ công là một trong bốn đức của bọn nữ lưu.
16. Bởi câu “tại gia tòng phụ”: một nết trong đạo tam tòng của nữ lưu.
17. Bởi câu “phụ nhận tòng nhất nhi chung”: đàn bà thuỷ chung chỉ một chồng.
***
Với cha mẹ
Dù nội, ngoại hai bề cũng vậy,
Đừng trành hanh bên ấy, bên này,
Cù lao[1] đội đức cao dày
100. Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng quở,
Muốn cho ta sáng sủa hơn người,
Ân cần kẽ tóc, chân tơ,
Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi.
105. Đừng nặng nhẹ, tiếng chì tiếng bấc,
Đừng vùng vằng mặt vực, mặt lưng,
Có thì sớm tiến trưa dâng,
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có thì yên một phận,
110. Người trên ta há giận ta sao!
Hoặc khi lầm lỗi điều nào,
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề,
115. Ra vào thăm hỏi từng khi,
Người đà vô sự[2], ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu[3] tùy ngơi.
Đừng điều tranh cạnh chia bai,
120. Xấu trong làng nước, để cười mai sau.
1. Công khó nhọc của cha mẹ, do câu: “ai tai phụ mẫu, sinh ngã cù lao”.
2. Không việc gì.
3. Bởi câu “phong kiệm tùy nghi”.
***
Với chồng
Đạo vợ chồng tình sâu nghĩa ái,
Lại chẳng nên mặt tái, mày tăm,
Chuyện đâu bỏ đấy cho êm
Đừng đem bên ấy về gièm bên ta.
205. Sách có chữ “nhập gia vấn húy”[1],
Khi nói năng phải kỹ kiêng khem,
Dịu dàng tiếng thuận lời mềm,
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
Chớ nên cậy mình ta tài sắc,
210. Chồng nói ra nhiếc móc chê khen.
Nói càn như ở bậc trên,
Thường khi động đến tổ tiên quá lời.
Cơn giận đến, sự đời ngang ngửa,
Dở dói ra nát cửa tan nhà,
215. Chữ “tùy”[2] là phận đàn bà,
Nhu mì để dạ, chua ngoa gác ngoài.
Dù lỗi phận gặp người tửu sắc[3]
Hay gặp người cờ bạc lưu liên[4],
Nhỏ to tiếng dịu lời êm
220. Dần dà uốn mãi may mềm được chăng!
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,
Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân,
Duyên may gặp được văn nhân[5],
Thuộc câu “tương kính như tân”[6] làm lòng.
225. Nghiệp đèn sách khuyên chồng sập sã,
Tiếng kê minh[7] gióng giả đêm ngày,
Khuyên chồng nhớ đến đạo thầy,
Vật dâng lớn nhỏ gọi nay lễ thường.
1. Vào nhà nào phải hỏi tên húy nhà ấy.
2. Theo, do chữ “phu xướng phụ tùy”.
3. Trỏ người ham mê rượu trà, trai gái.
4. Say đắm liên miên.
5. Người có văn học, nho nhã, khác hẳn bọn vũ phu.
6. Kính nhau như khách.
7. Gà gáy. Do câu “kê ký minh hỹ, kiều ký doanh hỹ”: gà đã gáy rồi, triều đình đã đông người rồi, đó là lời của một bà hiền phi khuyên nhà vua nên ra coi chầu cho sớm để các quan khỏi mong đợi. Sau người ta mượn chữ “kê minh” để nói về vợ khuyên chồng.
***
Với bạn hữu của chồng
165. Kìa những đứa mặt thường cau có,
Khách đến nhà chửi chó mắng mèo,
Cất lời nặng cỡ đá đeo,
Đã ra thét tớ lại vào mắng con.
Khách về đoạn sợ mòn mất chiếu,
170. Chồng ra đường chẳng kẻo mặt mo!
Hễ ngày bạn hữu giao du,
Sai người trải chiếu, sắp đồ tiếp ra.
Dù trăm giận thì ta để bụng,
Có trọng người mới trọng chồng ta.
175. Tùy người thết đãi rượu trà,
Nhớ rằng: Của gửi chồng ta đi đường!
***
Với chị em
Ấy là vẹn cương thường bằng hữu,
Lại phải tường trong đạo chị em,
Đạo em thì phải trông lên,
180. Đạo chị trông xuống cho êm đẹp chiều.
Miếng bùi ngọt chia đều như một,
Khi nắng mưa, ấm sốt đỡ tay,
Với nhau như bát nước đầy,
Lá lành đùm bọc bóng cây rườm rà!
185. Đạo thúc tẩu[1] một nhà minh bạch.
Lánh hiềm nghi tăm tích rõ ràng,
Trộm trông bóng đuốc Vân Trường[2],
Nức danh ba nước[1] treo gương muôn nhà.
1. Em chồng với chị dâu.
2. Ông Quan Vân Trường (Quan Vũ) bị Tào Tháo bắt giam chung với hai chị dâu trong một nhà kín, có ý để làm rối đạo luân thường. Người thắp đuốc sáng đứng hầu hai chị dâu suốt đêm cho đến sáng, để tỏ lòng chính trực quang minh, ai cũng phải kính phục.
3. Ba nước về đời Tam quốc bên Tàu: Ngụy, Thục, Ngô.
***
Với trong họ ngoài làng
Cả trong ngoài cùng là đàn cháu,
190. Xem như con yêu dấu chẳng sai,
Đồng quà, tấm bánh hôm mai,
Chớ điều dằn vật, chớ lời gieo đanh.
Từ họ mạc, láng giềng, hàng xóm,
Cũng ở cho trong ấm ngoài êm,
195. Tiếng chào, tiếng hỏi cho mềm,
Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai.
***
Với những khi sản dục
Ắy ngôn hạnh[1] các lời hằng giữ,
Lại cần điều cư xử cho tuyền,
Hễ ngày sóc, vọng, hối, huyền[2],
200. Cùng ngày nguyệt tín[3] phải khuyên dỗ chồng.
Khi thai sản trong phòng gìn giữ,
Học cổ nhân huấn tử[4] trong thai,
Dâm thanh[5] chớ để vào tai,
Ác ngôn[6] chớ chút bợn lời sam sưa!
205. Từ xuất nhập, khởi cư, hành động[7],
Có lễ nghi nghiêm trọng đoan trinh[8]
Đứng ngồi chính đại quang minh[9],
Cho bằng phẳng thế, chớ chênh lệch mình.
Chớ vin cao cũng đừng mang nặng,
210. Đừng ăn đồ cay đắng canh riêu,
Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều,
Nuôi từ trong dạ khỏi điều lo xa.
Khi sinh nở thai hòa vô sự,
Cẩn từ khi trong cữ ngoài tuần.
215. Chiều sương chớ để áo quần,
Đỉnh đầu phải cúi, bước chân phải dò.
Nơi bếp vách đừng cho hơ lửa,
Ngọn đèn hoa chớ quở quá ngôn[10],
Kiêng khem trăm sự vuông tròn,
220. Trước mình yên dạ, sau con ít sài.
1. Lời nói và nết ở, hai đức trong 4 đức của nữ lưu: Dung công ngôn hạnh.
2. Sóc: mồng một, vọng: ngày rằm, hối: ba mươi, huyền: thượng huyền (mồng 8 ) và hạ huyền (22) hai ngày ấy trăng hình như vòng cung nên gọi là huyền. Đó là trong một tháng.
3. Nguyệt kỳ tháng nào cũng thế, nên gọi là nguyệt tín, đây nói về kỳ hành kinh của bọn nữ lưu.
4. Dạy con.
5. Tiếng dâm đãng.
6. Lời nói nhảm nhí, phi lễ.
7. Xuất nhập: ra vào; khởi cư: đứng ngồi, lúc dậy lúc ở; hành động: cất nhắc làm lụng công việc gì.
8. Có lễ phép, nghiêm trọng: nghiêm nghị, trọng vọng, đoan trinh: ngay thẳng, trinh bạch.
9. Ngay thẳng, minh bạch.
10. Ngày xưa các cụ rất kính trọng thần Lửa, trước ngọn đèn và trong bếp giữ gìn rất sạch sẽ cẩn thận.
***
Với con cái
Ngày con đã biết chơi biết chạy,
Đừng cho chơi cầm gậy, trèo cao,
Đừng cho chơi búa chơi dao,
Chơi vôi, chơi lửa, chơi ao có ngày.
225. Lau cho sạch không hay dầm nước,
Ăn cho vừa, đừng ước cao lương[1],
Mùa đông tháng hạ thích thường,
Đừng ôm ấp quá, đừng suồng sã con.
Dạy từ thủa hãy còn trứng nước,
230. Yêu cho đòn bắt chước lấy người,
Trình thưa, vâng dạ, đứng ngồi,
Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.
Gần mực đen, gần đèn thì sáng,
Ở bầu tròn, ở ống thì dài,
235. Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu[2] là lời thế gian.
Làm mẹ chớ ăn càn, nói dở,
Với con đừng chửi rủa quá lời,
Hay chi thô tục những người,
240. Hôm nay cụ cụ, ngày mai bà bà.
Gieo tiếng ra chết cây, gãy cối,
Mở miệng nào có ngọn có ngành,
Đến tay bụt cũng không lành,
Chồng con khinh rẻ, thế tình mỉa mai!
245. Ấy những thói ở đời ngông dại,
Khôn thì chừa, mới phải giống người,
Sinh con thì dạy thì nuôi,
Biết câu phải trái lựa lời khuyên răn.
1. Món ăn ngon lành béo tốt quí giá hơn những món ăn thường.
2. Phúc đức ở người mẹ.
***
Với dâu rể
Tuổi cả khôn, hôn nhân trạch phối[1],
250. Giàu đừng tham, khó đói chớ nề,
Dâu hiền, rể thảo tìm về,
Xem tông xem giống[2] kẻo mê mà lầm.
Xử với rể một niềm kính trọng,
Dù dở hay, đừng giọng mỉa mai,
255. Với dâu, dạy bảo phải lời,
Bắt khoan bắt nhặt, biết ai cho vừa.
1. Dựng vợ gả chồng, kén chọn lứa đôi cho con.
2. Tục ngữ: “lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”.
***
Thờ cúng
Trong nhà vận thịnh suy có mệnh,
270. Đạo quỉ thần thì kính viễn chi[1],
Nắng mưa giải kiết có khi,
Phải chăm cơm thuốc, đừng mê cốt thầy.
Nhà chẳng quét, quét hay có rác,
Đã bói ra[2], bỏ nhác sao đành,
275. Cao tay mấy kẻ có danh,
Bùa bèn chẳng bỏ là tinh hiện vào.
Suy cho thấu, tà nào phạm chính[3],
Cứ thánh kinh cảnh tỉnh dị kỳ,
Kìa như mấy kẻ tăng, ni[4],
280. Thôi tuần cúng Phật, lại khi vào hè.
Nam mô phật rù rì hai chữ,
Đua nhau rằng tín nữ thiện nam,
Miệng rằng chừa độc chừa dâm,
Tay lần tràng hạt dao găm một bồ.
285. Kẻ trốn việc ở chùa cũng có,
Kẻ lộn chồng, trốn chúa cũng nhiều,
Gian ngoan rất mực làm kiêu,
Mượn danh Hòa thượng, lợi điều tham dâm.
Chẳng qua lũ ngu dân hoặc thái,
290. Phúc đức đâu nghĩ lại mà coi.
Trước sau có bấy nhiêu lời,
Bảo nhau gìn giữ nên người thơm danh.
Dù ai nấy có tình chẳng cứ,
Thói Thọ Dương[5] vẫn giữ không chừa,
295. Ngày ngày mắng sớm đòn trưa,
Thường thường dạy dỗ mà ra tuồng gì.
Cành kia lớn sợ khi khó nắn,
Sắt nọ mài ắt hẳn nên kim,
Diễn nôm cho tiện mà xem,
300. Dạy nhà trước đã mới đem dạy người.
1. Bởi câu “quỉ thần kính nhi viễn chi”: đối với quỉ thần nên thành kính mà nên xa chứ không nên gần.
2. Bởi câu tục ngữ “bói ra ma, quét nhà ra rác”.
3. Bởi câu “tà bất cảm phạm chính”.
4. Tăng: sư nam; ni: sư nữ.
5. Tức Thọ Dương công chúa, con gái Tống Vũ đế, Thói Thọ Dương nghĩa bóng là thói trăng hoa lẳng lơ.
***
Dạy con ở cho có đức
Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
305. Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn[1],
310. Thương người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
315. Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây “cần kiệm”[2] gọi là làm duyên
May ra ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng; ngày đói tháng đông[3],
320. Thương người bớt miệng bớt lòng mà cho
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng.
Của là muôn sự của chung,
Sống không, thác lại tay không có gì.
325. Ở phải có nhân có nghì,
Thơm danh vả lại làm bia miệng người.
Hiền lành lấy tiếng với đời,
Lòng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai ương hoạn nạn đều qua,
330. Bụi trần giũ sạch thực là từ đây.
Vàng trời tuy chẳng trao tay,
Bình an hai chữ xem tày mấy mươi.
Mai sau bạc chín tài mười,
Sống lâu ăn mãi của đời về sau.
335. Kìa người ăn ở cơ cầu,
Ở thì chẳng biết về sau phòng mình,
Thấy ai đói rách thì khinh,
Cách nào là cách ích mình thì khen.
Hứng tay dưới với tay trên,
340. Lọc lừa từng tí, bon chen từng đồng!
Ở thì phất giấy đan lồng[4],
Nói thì mở miệng như rồng như tiên[5].
Gan thì quá ngỡ sắt đèn,
Miệng thơn thớt nghĩ rơi tiền bạc ra.
345. Mặt lành khéo nói thực thà,
Tưởng như xẻ cửa xẻ nhà cho nhau.
Ở nào mùi mẽ chi đâu,
Như tuồng cuội đất giấu đầu hở đuôi.
Nói lời lại nuốt lấy lời,
350. Một lưng bát xáo mười voi chưa đầy[6].
Cho nên mới phải lúc này:
Cửa nhà tàn phá phút rày sạch trơn.
Kẻ thì mắc phải vận nàn,
Cửa nhà một khắc lại tàn như tro.
355. Kẻ thì phải lính, phải phu,
Đem mình vào chốn quân gia trận tiền.
Kẻ thì mắc phải dịch ôn[7],
Kẻ thì thủy hỏa gian nan[8] kia là!
Thấy người mà phải lo ta,
360. Sờ sờ trước mắt thực là thương thgay,
Khuyên ai chớ bắt chước rày,
Ở lòng nhân nghĩa cho đầy mới khôn.
Lời cha dạy bảo nỉ non,
Trước sau ghi chép khuyên con nghe lời.
365. Nghe thì mới phải là người,
Chẳng nghe thì cũng là đời bỏ đi.
1. Quan: người góa vợ; quả: người góa chồng; cô: mồ côi cha mẹ; độc: già không con cái, 4 hạng đó là tứ cùng, tình cảnh đáng thương, vì không nương tựa vào đâu.
2. Cần: siêng năng; kiệm: dè xẻn.
3. Tháng về mùa đông, mùa rét.
4. Ý nói cư xử thì giả dối chỉ có bề ngoài.
5. Ý nói, nói năng thì văn hoa đẹp đẽ.
6. Tục ngữ: “mười voi không được một bát nước xáo”.
7. Thần làm bệnh dịch tả.
8. Nước lụt hỏa hoạn, lụt, cháy, nói về tai biến vất vả khó khăn.
***
Dạy con gái phải có đức hạnh
Phận làm gái ở cùng cha mẹ,
Lòng phải chăm học khéo học khôn,
Một mai xuất giá hồi môn[1],
370………………………………….
Phận bồ liễu[2] giá trong như ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,
375. Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi.
Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.
Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.
380. Phận làm gái này lời giáo huấn[3],
Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức[4]: dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
385. Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.
Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
390. Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,
Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần[5].
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương[6]:
Đẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,
395. Đạo chồng sánh quân thân chi đạo[7],
Làm tôi con chỉ trung chỉ hiếu[8],
Làm dâu thì chỉ kính mới nên[9].
Chớ khoe khoang mình bạc mình tiền,
Đừng đỏng đảnh cậy khôn cậy khéo.
400. Bề thiếp phụ thuận tòng là điệu,
Cũng như bên thờ chúa thờ cha,
Muôn nghìn đừng thói kiêu ngoa,
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn.
Quyền mệnh phụ[10] là mình làm chủ,
405. Trong đại hôn[11] áo mũ thân nghênh[12],
Kính người vợ phép ở Lễ Kinh[13]
Chức phận phải chăm bề tần tảo[14],
Trong khuê khổn[15] giữ gìn khăn áo,
Trên từ đường[16] trăm việc trơn tru.
410. Từ cơm, canh, cá, thịt, mọi đồ,
Dẫu nhiều ít sửa cho trong sạch.
Bằng nhường ấy thần minh lai cách[17],
Câu “hữu trai”[18] nên tiếng để đời,
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,
415. Người khôn ai nỡ nặng lời đến ai.
Bề nội trợ[19] việc trong xem xét,
Siêng năng thì trăm việc đều nên,
Chớ khoe khoang lắm thóc nhiều tiền,
Ngồi ăn mãi non mòn núi lở.
420. Việc nhà có kẻ ăn người ở,
Từ trong ngoài như bảo trước sau,
Đồ làm ăn, ngày để đâu đâu,
Ban tối phải thu về cho đủ.
Trống canh một chớ đà vội ngủ,
425. Siêng năng thì chăm chú việc ta.
Lũ nô tỳ trai gái năm ba,
Cơm chưa chín không nên khua xáo.
Đứa xay thóc, đứa thì gĩa gạo,
Đứa bếp thì chủ việc cơm.
430. Ăn đoạn rồi cho chúng nghỉ ngơi,
Đèn ta sẽ soi trong bếp lại.
Đùng tin trẻ tôi đòi thơ dại,
Lời dạy rắng “giữ lửa chẳng chơi”.
Cho hay đại phú bởi trời[20],
435. Nhưng mà ở thế thì người hết chê.
Cầm then khóa giữ bề thu phát[21],
Chắt chiu mà dè dặt mới nên,
Coi sóc từ hạt gạo đồng tiền,
Đừng cậy có ăn càn, tiêu dở.
440. Bữa thường phải xem cho con ở,
Cũng đừng thừa, chớ thiếu làm chi.
Kẻ lân bang[22] đến một đôi khi,
Đồ thết đãi xem cho tử tế.
Trong nhà phải bảo nhau có ý,
445. Đừng chửi mèo, mắng chó mà chi.
Trong anh em thiên tải nhất thì[23].
Sang vì vợ nhưng giàu vì bạn.
Chiều rộng hẹp tùy cơ ứng biến,
Đạo trì gia đãi khách khác màu,
450. Trần trần một mực nên đâu,
Phô loài bồ các[24] biết đâu lẽ gì,
Phận là gái về làm dâu cả,
Việc ta chăm giữ chốn từ đường,
Lấy ngọn tần, lá tảo lễ thường
455. Kìa hiếu dưỡng Thành Chu gia pháp[25].
Tôn tộc đến những khi kỵ lạp[26],
Xem bằng nhường quí khách, gia tân[27].
Có chữ rằng: “đạo trọng thân thân”,
Dễ mấy thủa đông như ngày giỗ.
460. Lúc lễ tất[28] lẻn vào dọn cỗ,
Hãy pha trà tiếp đãi cho xong,
Bữa thường dù dưa muối mặc lòng,
Khi có họ xem cho tử tế,
Nước đã đoạn rượu liền nhân thể,
465. Giục tiểu hầu bưng cỗ tiếp ra.
Nhà dưới ta mời họ đàn bà,
Coi sóc hỏi họ hàng con cháu.
Không bỏ sót là tình yêu dấu,
Ai chẳng khen hiền đức phụ nhân[29],
470. Trọn đời đẹp mặt phu nhân,
Vì chưng chủ phụ thân thân biết điều.
Bề phụng dưỡng đôi bên cha mẹ,
Muôn một khi đá đổ bồ hôi,
Nghĩ xa lo đứng lo ngồi,
475. Chẳng còn tưởng đến tham công tiếc việc.
Đường điều hộ[30] tiền không dám tiếc,
Mặc phu quân[31] giữ việc thuốc thang,
Song ta nâng giấc giữ giàng,
Điều ăn uống phải hỏi han tùy thích.
480. Lòng người ước chim, gà, cá, thịt,
Của nên ăn dù đắt cũng mua.
Tùy người ưa thức ngọt chua,
Nhưng gia vị phải mong cho đủ mùi.
Xem quần áo nên thay kẻo bẩn,
485. Lòng yêu thân phải cẩn từng khi,
Tấm lòng trời đất chứng tri,
Dâu hiền có hiếu, tiếng ghi để đời.
Này con gái thuộc về khôn đạo[32],
Khôn đức nhu[33] nết gái dịu dàng,
490. Một đôi khi chân bước ra đường,
Bề tôn trưởng thì lòng kính nhượng[34].
Dù chẳng phải là ta hơi hướng,
Nghĩa hương lân[35] phải cất tiếng chào.
Bằng thấy người đầu bạc tuổi cao,
495. Có mang đội trình đòi nâng đỡ.
Thì miệng lưỡi chê bai ai nỡ,
Ở trên đời gái ở nết na
Con hiền đẹp mặt mẹ cha,
Chồng hòa yêu chuộng, họ hòa kính chung.
500. Dạy những kẻ đàn bà con gái,
Gặp phải chồng cờ bạc rượu chè,
Nay ông tơ, bà nguyệt trót xe,
Duyên phận ấy trót làm sao được.
Ở là phải tìm mưu giả chước,
505. Ngọt lời khuyên lâu cũng phải nghe,
Lúc ham mê cơm rượu say nhè,
Hãy cơm cháo trọn bề phụ đạo[36].
Chớ vợ nghiến chồng, thêm trân tráo,
Như chuyện chi lửa cháy dầu thêm,
510. Chẳng bằng khi chăn ấm chiếu êm,
Hãy năn nỉ đường khôn lẽ phải.
Bề ân ái vợ chồng là ngãi,
Dẫu giàu ăn, khó chịu cho cam.
Hay gì yến bắc, nhạn nam,
515. Khăng khăng một tiết cho cam sở nguyền.
Đạo vợ chồng là duyên kim cải[37],
Vốn trời sinh bể ái nguồn ân,
Kìa ai nổi trận phong vân[38]
Cũng vì gái nhiều phần nhầm lỗi.
520. Phận là gái ít đường giáo hối[39],
Thấy chồng yêu dễ lấy làm nhờn,
Miệng sai ngoa nói những giọng càn,
Bụng kiêu ngạo một ngày một sính,
Đạo cha mẹ đã không biết kính,
525. Bề anh em lại chẳng hay nhường,
Chua chát thay những tính cương cường[40]
Ai là đá ru mà chịu vậy!
Đường gia pháp[41] không ăn lời dạy,
Việc giáo hình[42] đến phải ra tay,
530. Hổ thân tiếng khắp đông tây,
Nông nỗi ấy hết đương khôn khéo.
Khuyên những các đào tơ liễu yếu,
Lấy làm gương chớ bắt chước chi,
Một niềm kính thuận vô vi,
535. Trước là khỏi nhục, sau thì nên danh,
Thương những kẻ đàn bà mất dạy,
Lại gặp chồng sợ vợ như ma,
Trách chi mà chẳng thói kiêu ngoa,
Những lừa cạnh, phô sòng, làm lệ.
540. Bề họ mạc không hay kính nể,
Nghĩ bon chen tiền bạc là khôn,
Đường gia tài khôn biết vén vun,
Nghĩ tha thướt áo quần là khéo,
Gà eo óc, phòng loan uốn éo,
545. Bầng mắt ra đã tỏ vầng ô,
Việc trong ngoài khí dụng các đồ,
Mặc con cái gặp sao hay vậy,
Bề nội ngoại những phô loài ấy.
Phúc đức kia còn nói làm chi,
550. Khen cho bà nguyệt khéo xe,
Anh này sánh với chị kia đương vừa.
1. Xuất giá: Ra lấy chồng. Hồi môn: Về nhà chồng.
2. Cỏ bồ, cành liễu là những loài thực vật yếu ớt, ví với đàn bà con gái thuộc về phái yếu.
3. Dạy bảo.
4. Dung, công, ngôn, hạnh: Tứ đức: Dung, công, ngôn, hạnh.
5. Cõi tục, khác hẳn cõi tiên.
6. Ba giường: vua tôi, cha con, chồng vợ.
7. Ý nói coi chồng như vua, như cha.
8. Bởi câu “Vi nhân thần chỉ ư trung, vi nhân tử chỉ ư hiếu”: Tôi con cốt phải trung, hiếu.
9. Bởi câu “phu phụ chỉ ư kính” vợ chồng cốt ở kính nhau.
10. Người đàn bà có chức tước, vợ các quan to.
11. Một thiên trong kinh Lễ nói về việc lễ nghi cưới xin.
12. Lễ đón dâu.
13. Một kinh trong Ngũ kinh.
14. Thứ rau dùng để cúng tế.
15. Nơi buồng the của bạn nữ lưu.
16. Nhà thờ gia tiên.
17. Thần minh đến chứng giám.
18. Hữu trai quí nữ: Chữ trong Kinh thi nói về người chủ phụ tri tịnh trong sạch sửa sọan cỗ bàn để thờ cúng.
19. Giúp việc bên trong, chỉ về phái nữ lưu.
20. Đại phú do thiên: Giàu to bởi trời.
21. Thu vào phát ra.
22. Xóm giềng, làng mạc.
23. Nghìn năm mới có một lúc. Ý nói dịp hiếm có.
24. Câu này tối nghĩa, chưa rõ bồ các là thế nào ?
25. Lấy hiếu nuôi cha mẹ là gia pháp nhà Thành Chu (do ông Chu công đặt ra).
26. Tôn tộc: Họ hàng; Kỵ lạp: ngày giỗ, ngày chạp.
27. Đều là khách quí.
28. Tế xong, lễ xong.
29. Người đàn bà hiền đức.
30. Thầy thuốc coi bệnh, chữa bệnh.
31. Người chồng, đàn bà gọi chồng là phu quân.
32. Dạo quẻ khôn. Phụ nữ theo về khôn đạo, do câu khôn vi mẫu, cũng như đàn ông theo về kiền đạo, do câu kiền vi phu.
33. Đức khôn mềm mại nhu mỳ, đối với kiền đức cương: Đức kiền, cương quyết cứng rắn.
34. Tôn trưởng: bậc trên, kẻ đàn anh, Kính nhượng: kính nhường.
35. Làng xóm.
36. Đạo làm dâu.
37. Do chữ “Châm năng thập giới”: Cái kim (có từ thạch) nhặt được hạt cải. Duyên kim cải nói bóng về sự hòa hợp nhau.
38. Gió mây. Trận phong vân đây có lẽ cũng như lôi đình: sấm sét, cơn giận dữ.
39. Dạy bảo.
40. Cứng rắn, mạnh bạo.
41. Phép nhà.
42. Hình phạt để dạy bảo.
***
Vợ khuyên chồng
Vợ chồng ta tơ hồng vấn vít,
Nhân duyên này bà nguyệt khéo xe.
Trình anh thân thiếp vụng về,
555. Yêu thì nên tốt chớ nề ngu si,
Quản bao lỗi nọ, lầm kia,
Chiều thanh vẻ quí dám bì được đâu.
Thiếp vâng lời dạy trước sau,
Nguyện xem then khóa, giữ hầu áo khăn.
560. Trước là thờ phụng tiền nhân,
Sớm thăm tối viếng[1] ân cần đỡ anh.
Bốn phương chàng hãy kinh doanh,
Dùi mài kinh sử tập tành cung tên.
Công danh mong đợi ơn trên,
565. Còn trong trần lụy[2] hãy xin dấu mầu.
Gửi trình dễ dám khuyên đâu,
Sắc phòng thương thận, rượu hầu thương tâm[3]
Thiếp xin chàng chớ đăm đăm,
Những nơi cờ bạc chớ ham làm gì.
570. Thế gian lắm kẻ điên mê,
Áo quần lam lũ người thì như ma.
Thiếp xin chàng lánh cho xa,
Một niềm trung hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long vân[4],
575. Đào tơ, liễu yếu gửi thân anh hùng[5].
Xưa nay gái đội ơn chồng,
Hiển vinh bõ lúc cơm sung, cháo dền.
Ơn trời công đã được đền,
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà!
1. Bởi chữ “thần tỉnh hôn định”, đạo làm con đối với cha mẹ.
2. Lúc còn lam lũ hàn vi, bận bịu vì gió bụi.
3. Ý nói sắc dục quá độ thì hại thận mà rượu uống nhiều quá thì hại tim, nên phải giữ gìn tửu sắc.
4. Hội rồng mây, gặp gỡ may mắn.
5. Ý nói đàn bà con gái là phái hèn yếu, trông cậy cả ở bọn nam nhi là bậc anh hùng.
***
Dạy học trò ở cho phải đạo
580. Nào là những kẻ học trò,
Nghe lời thầy dậy phải lo sửa mình.
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng,
Thời đêm ngày tư tưởng chớ khuây,
Hai công đức ấy nặng thay,
585. Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao!
Trình vâng từ tốn ngọt ngào,
Đi về thưa thốt, ra vào thăm lênh.
Bánh quà, cá thịt, cơm canh,
Sớm trưa thay đổi để dành hẳn hoi.
590. Bữa thường dâng ngọt dâng bùi,
Nâng niu chào hỏi chẳng sai đâu là.
Nghĩ công khó nhọc nuôi ta,
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tròn,
Kể từ lúc hãy còn thai dựng[1],
595. Đến những khi nuôi nấng giữ giàn
Nặng nề chín tháng cưu mang,
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi,
Ấp ôm bú mớm chẳng rời trên tay.
600. Mong cho biết ngửa biết ngây,
Biết chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ,
Ngày trứng nước, thủa ngây thơ.
Bao giờ sài ghẻ bấy giờ lại lo.
Lo cho biết lẫy, biết bò,
605. Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi.
Đoạn rồi lại lo khi xảy đậu,
Công, dại, ngây, thơ ấu, u ơ.
Ba năm nhũ bộ[2] còn thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào ?
610. Chữ rằng “sinh ngã cù lao”[3],
Bể sâu khôn ví, trời cao khôn bì.
Nhưng mà gặp buổi bình thì,
Tiền trăm, bạc chục việc gì mà lo!
Hay là gặp cửa nhà giàu,
615. Của chìm của nổi dễ hầu lo chi!
Song ta vốn đã hàn vi[4],
Lại sinh ra gặp phải thì can qua[5].
Đòi khi kém đói thiết tha,
Bán buôn tần tảo cho qua lúc này.
620. Việc nhà việc cửa chuyên tay,
Khi đêm quên ngủ, khi ngày quên ăn.
Ngược xuôi gánh vác nhọc nhằn,
Chân le, chân vịt nào phần khoan thai.
Hình dung ăn mặc lôi thôi,
625. Áo thời xốc xếch, khố thời đuôi nheo.
Gian nan đòi đoạn ngặt nghèo,
Mà cho con học có chiều bao dong.
Thế gian mấy kẻ có lòng,
Có công trời hẳn dành công để chờ.
630. Bây giờ loạn lạc bơ vơ,
Cơ trời bĩ thái nắng mưa là thường.
Khuyên con học lấy văn chương,
Có bên nghĩa lý, có đường hiển vinh.
Loạn rồi lại có khi bình,
635. Khi bình ta hãy cá kình giương vây.
Say sưa kinh sử chớ khuây,
Sắt mài ắt hẳn có ngày nên kim.
Mãi Thần[6] kia mới là gan,
Trèo non kiếm củi, đốt than dãi dầu.
640. Bể thánh sâu, cố gia công lội,
Rừng nho gai, thẳng lối xông pha,
Ba năm chợt đổi khôi khoa,
Sân rồng ruổi ngựa, đường hoa giong cờ.
Trần Bình[7] nhà bạc cửa thưa,
645. Đói no chẳng quản, muối dưa chẳng nề.
Đọc sách là chí nam nhi,
Giúp Lưu trót đã lục kỳ nên công[8].
Lọng giương, ngựa cưỡi, xe giong,
Bể sâu cá nhảy vẫy vùng bõ khi.
650. Ấy là thủa trước nam nhi,
Bây giờ đèn sách sớm khuya thế nào?
Chữ rằng: “loạn độc thư cao”[9],
Khi nên cũng thế, khác nào người xưa.
Nắng lâu cũng có khi mưa,
655. Trồng dưa thì lại được dưa[10] nệ gì.
Mai ngày treo biển tên đề,
Khôi khoa lại được gặp kỳ thánh minh.
Lộc trời, tước nước hiển vinh,
Báo đền đôi đức dưỡng sinh bấy chầy.
660. Bõ khi nghèo khổ chua cay,
Bõ khi đèn sách, bõ ngày gian truân.
Bệ rồng gang tấc chín lần,
Trong triều mực thước, ngoài dân quyền hành.
Một triều là một thanh danh,
665. Bởi chưng có chí học hành thì nên.
Bao nhiêu là gái thuyền quyên,
Lưng ong má phấn cũng chen chân vào.
Đã má đỏ, lại má đào,
Thơm tho mùi xạ ngạt ngào mùi hương.
670. Đủ mùi những thức cao lương,
Sơn hào hải vị[11] bữa thường đổi trao.
Lợn quay, xôi gấc, chè tàu,
Ai ai là chẳng đến hầu làm tôi.
Quạt lông, gối xếp, thảnh thơi,
675. Một lời dạy đến, trăm người dạ vâng.
Tiếng đàn, tiếng địch, tưng bừng,
Câu thơ, câu phú lại dâng chén quỳnh[12].
Trong ngoài quan khách linh đình,
Treo chông nội thất[13], truyền sênh công đường[14].
680. Phấn trần, tranh cánh, giá gương.
Khi buông màn vóc, khi giường chiếu hoa.
Người hầu, người hạ, nhởn nhơ,
Thắm chen vẻ tía, vàng pha màu hồng.
Nhà ngang dãy dọc trùng trùng,
685. Hầu non: con mới, tiểu đông: thằng tranh.
Trai khoe lịch, gái khoe thanh,
Ra vào hài hán, chung quanh dập dìu!
Giàu sang khác vẻ trăm chiều,
Vì ơn cha mẹ lắm điều vì ta.
690. Nghĩa thứ ba là trong thầy tớ,
Dạy mấy lời phải nhớ đinh ninh.
Nghĩa dưỡng sinh hiếu trung là thế
Đường công danh có chí thì nên.
1. Mang thai, có chửa.
2. Bú mớm.
3. Do câu “ai tai phụ mẫu sinh ngã cù lao”: thương thay cha mẹ ta, sinh ra ta khó nhọc.
4. Đói rét, nghèo hèn. Lúc chưa gặp thì còn hàn vi vất vả.
5. Giáo mác, lúc loạn lạc.
6. Chu Mãi Thần người đời Hán, quê ở Cối kê, nhà nghèo chăm học, vừa đi hái củi vừa đọc sách, vợ bỏ đi lấy chồng khác. Sau Mãi Thần làm đến Thái thú, khi đi cung chúc, gặp vợ cũ cùng với chồng phải làm phu đi dọn đường đón quan. Vợ xin tái hợp, Mãi Thần bảo nếu đổ bát nước xuống đất mà bốc lại đầy bát được thì cũng bằng lòng. Vợ biết có ý đoạn tuyệt, bèn tự tử.
7. Người đời Hán, quê ở Dương vũ, nhà nghèo chăm học, sau về giúp Hán Cao tổ, diệt được Hạng Vũ, có công được phong hầu.
8. Lục kỳ do chữ “lục xuất kỳ kế”: sáu lần bày mưu lạ. Trong khi Trần Bình giúp Hán đánh Sở.
9. Bởi chữ “Loạn thế độc thư cao”: Đời loạn đọc sách là cao hơn cả.
10. Bởi câu “chủng qua đắc qua”.
11. Những món ăn thức nhắm ở rừng và ở bể. Các món ăn quí.
12. Do chữ “quỳnh tương”: rượu quí.
13. Nhà trong, nhà riêng.
14. Dinh công.
***
Khuyên học trò phải chăm học
Trước cửa Khổng[1] cung tường chín chắn.
695. Bước lên đường vào cửa ung dung,
Trăm quan, tôn miếu, lạ lùng[2],
Học hành cho biết thỉ chung tỏ tường.
Bẩm phi thường khác hơn mọi vật,
Ắt làm người thời chẳng hư sinh.
700. Phú cho tai mắt thông minh[3],
Tính tình gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền.
Bực thánh hiền ấy không dám ví,
Song làm người có chí thì nên,
Khai tâm[4] từ thủa thiếu niên[5],
705. Hiếu kinh tiểu học[6] trước liền cho thông.
Đọc cho đến Trung dung, Đại học[7],
Tứ thư rồi lại đọc ngũ Kinh[8],
Thi, Thư, Dịch, Lễ, đều tinh,
Xuân thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.
710. Xem cho đến Bách gia, Chư tử[9],
Bảy mươi pho sử[10] đều thông,
Sớm khuya ở chốn văn phòng,
Bút nghiên, giấy mực bạn cùng chân tay.
Bài kinh nghĩa[11] cùng bài văn sách[12],
715. Tinh phú, thơ[13], mọi vẻ văn chương.
Một đèn, một sách, một giường,
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Học trò giữ chính tâm[14] làm trước,
Với tu, tề, bình, trị[15] đều yên,
720. Cương thường[16] giữ hiếu làm nên,
Từ đoan, ngũ giáo cho tuyền công sinh.
Bề đạo đức, gia đình phải giảng,
Phủ thiên quân[17] quang đãng tinh vi.
Lý cho cách vật, trí tri,
725. Trong thì dưỡng đức[18], ngoài thì tu thân[19].
Nghiệp tứ dân[20] nhất rằng chữ sĩ,
Nghề nông, thương, công cổ khôn sơ,
Đạo thầy thứ nhất là Nho,
Toán, y, lý, số[21] dám so sánh bài.
730. Khắp triều đình trong ngoài lớn nhỏ,
Những là người áo mũ đai cân,
Đời nào cũng chuộng nghề văn,
Mưu mô[22] giẹp loạn, kinh luân[23] mở nền
Pho kinh sử[24] làu chuyên nghề học,
735. Chốn thư đường[25] từng đọc hôm mai,
Quan sang chẳng có riêng ai,
Đạo trời nào phụ những người độc thư[26] .
Kìa trước hết văn nho sĩ tử[27] ,
Dẫu khó khăn kinh sử càng chuyên,
740. Làm nên trọng chức cao quyền,
Trong ngoài ai chẳng ngợi khen bậc hiền.
Nhặt lấy cỏ bồ biên mà đọc,
Người Ôn Thư[28] chí học mới cao.
Chàng Hoằng[29] không sách biết sao.
745. Mượn kinh mà học viết vào mảnh tre.
Dùi đâm vế kẻo khi buồn ngủ,
Ngươi Tô Tần[30] chí thú đọc kinh,
Tóc treo giường ấy, Tôn sinh[31],
Để cho dễ thức học hành canh khuya.
750. Thủa dầu hết đèn hoe bóng tuyết,
Chàng Tôn Khang[32] chịu rét đêm đông,
Nọ ngươi Trác Dận[33] dầu không,
Túi bao đom đóm bạn cùng thư trai.
Vai gánh củi học thời luôn miệng,
755. Chu Mãi Thần nên tiếng danh nho,
Lý sinh[34] chẳng quản công phu,
Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.
Ấy những người trước từng khó nhọc,
Sau làm nên tước lộc quan sang,
760. Làm trai chí khí hiên ngang,
Chớ rằng nguy khổ trễ tràng làm chi!
Oanh bé nhỏ tuổi thì lên tám[35],
Việc đọc thơ sớm đủ tinh thông
Lão Tuyền[36] tuổi cả gia công,
765. Hai mươi bảy tuổi dốc lòng nghề nho.
Đường Lưu Án[37] tuổi vừa lên bảy,
Đỗ Thần đồng tiếng dậy gần xa.
Ông Lương đã đến tuổi già[38],
Tám mươi hai tuổi đỗ khoa đại đình
770. Đường vân trình[39] dù sau dù trước,
Chữ công danh ai khác chi ai,
Hễ người có chí có tài,
Gió rung mặc gió khôn rời khôn lay.
Chẳng sợ kẻ lắm thầy nhiều tớ,
775. Thấy ta nghèo ra sự rẻ khinh,
Thư trung lắm kẻ hiển vinh,
Dập dìu hầu hạ, linh đình ngựa xe[40].
Chẳng sợ kẻ lắm tiền, nhiều lúa,
Nghĩ mình rằng có của thì hơn,
780. Thư trung Kim ngọc vô vàn,
Đầy khè chung đỉnh[41], chứa chan bạc vàng.
Chẳng sợ lắm kẻ thê nhiều thiếp,
Đả hẳn rằng tốt đẹp hơn ai?
Thư trung có gái tuyệt vời,
785. Những người mặt ngọc[42] là người vẻ vang.
Chẳng sợ kẻ tòa ngang dãy giọc,
Khinh nhau rằng hàn ốc thê lương[43].
Thư trung tuấn vũ điêu tường[44].
Lầu hồng gác phượng cột giường liền mây
790. Ai có chí đêm ngày luyện tập,
Theo người xưa cho kịp mới nên.
Học cho hy thánh hy hiền[45],
Việc gì thông biết chẳng phiền lụy ai.
Chốn lâm tẩu[46], hoài tài bảo đức,
795. Khắp bốn phương đồn nức thời danh[47],
Chiếu nêu cao giá ngọc lành,
Xe loan có thủa cung doanh có ngày[48].
1. Do chữ “Khổng môn”: cửa đức Khổng.
2. Tử Cống và Tử Trương đều là học trò đức Khổng tử, Tử Cống bảo Tử Trương: Tử này (Tử Cống tự xưng tên) đâu dám bì với đức phu tử (tức Khổng phu tử), chỉ vì bức tường của nhà tử cao ngang vai, nên ai cũng trông thấy đồ vật trong nhà, còn tường của đức phu tử thì cao hàng mấy đợt, không mấy người biết những đồ vật bầy biện đầy đủ và tôn miếu đẹp đẽ ở bên trong.
3. Bởi câu “Nhĩ mục thông minh nam tử thân, hằng quân phú dữ bất vi bần”: Tai mắt sáng suốt là thân người con trai, trời phú bẩm cho chẳng phải hèn kém.
4. Vỡ lòng.
5. Trẻ tuổi.
6. Sách dạy học trò nhỏ.
7. Hai bộ trong tứ thư.
8. Bốn bộ sách: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử ; Ngũ kinh: năm bộ kinh: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân thu.
9. Các nhà học giả đời Chu, Tần, Hán như Lão, Trang, Quản, Thương, Thân, Hàn, Mặc, Liệt, mỗi nhà một lý thuyết, đều làm thành sách để lưu truyền.
10. Đây là Bắc sử, ngày xưa ta toàn học chữ Tàu còn sử bản quốc chỉ lưu tại bộ, ít khi ban hành.
11. Một lối văn chương dùng làm bài thích nghĩa kinh truyện, do đời Đường Tống đặt ra, Đến Nguyên, Minh, Thanh biến làm lối 8 vế và cả bên ta cũng dùng để ra bài thi lấy học trò đỗ đạt về hồi còn khoa cử chữ nho, cũng có tên là văn bát cổ.
12. Cũng là một lối văn hỏi về những nghĩa lý cổ kim, dùng để thi cử.
Đều là lối văn chương có vần có điệu luật, ngày nay vẫn còn dùng, một lối văn vần theo lối Tàu.
13. Giữ lòng cho ngay thẳng.
14. Tu: tu thân: sửa mình; Tề: tề gia: cai quản việc gia đình cho tề chỉnh đâu ra đấy ; Bình: bình thiên hạ: cho thiên hạ điược hòa bình ; Trị: trị quốc: cả nước được thịnh.
15. Cương: ba mối giường: vua tôi, cha con, vợ chồng. Thường: ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
16. Con tim ở giữa, cai quản ngũ quan, tựa một ông vua của hình thể người ta, nên quen gọi tim (tâm) là thiên quân, “phủ Thiên quân” đây cũng như nói cõi lòng.
17. Nuôi đức.
18. Sửa mình.
19. 4 hạng dân: sĩ, nông, công, cổ: học trò, làm ruộng, làm thợ, đi buôn.
20. Bói toán, làm thuốc, làm địa lý, xem số.
Mưu chước.
21. Thủ đoạn xếp đặt công cuộc lớn.
22. Kinh sử tượng trưng về sách vở việc học.
23. Nhà học, nhà xem sách.
24. Bởi câu “Hoàng thiên bất phụ độc thư nhân”: trời không phụ những người đọc sách.
25. Học trò văn nho.
26. Lộ Ôn Thư người đời Hán, quê ở Cự lộc, nhà rất nghèo, thủa nhỏ đi chăn dê, lấy cỏ bồ biên chữ làm sách để học. Đời Hán Tuyên đế, dâng thư nói về việc chính trị, khuyên vua nên chuộng việc nhân đức, hoãn sự hình phạt, được thăng đến chức Thái thú.
27. Công tôn Hoằng: người đời Hán, nhà nghèo chăm học, không có tiền mua sách, thường phải chép vào mảnh tre để đọc. Đời Hán Vũ đế, đối sách đỗ đầu, được bổ Bác sĩ, rồi thăng đến Thừa tướng và được phong tước Hầu.
28. Người đời Chiến quốc, quê Lạc đường, lúc còn đi học đêm đọc sách, sợ buồn ngủ, để mũi dùi dưới vế đùi, hễ ngủ gật thì dùi đâm lại dậy học, sau đi du thuyết, làm tướng 6 nước chư hầu.
29. Tôn Kinh: người đời Hán, rất chăm học, thường đóng cửa đọc sách, đêm ngủ sợ quên, là một cái thòng lọng bằng dây buộc trên sà nhà dòng xuống trước mặt hễ ngủ gật đầu chui vào tròng, thì lại tỉnh ra. Thơ Lý Thương Ẩn: “Huyền đầu tằng khổ học, Triết lý phân thành y”: Treo đầu từng chăm học, đứt tay mới hay thuốc.
30. Người đời Tấn, quê ở Kinh triệu, nhà nghèo ham học, không có dầu, đêm phải hé ra ánh mưa tuyết chịu rét mà đọc sách.
31. Người đời Tấn, học rộng biết nhiều, nhà nghèo không tiền mua dầu, về mùa hè, thường bắt đom đóm bỏ vào túi vải thưa soi cho sáng để xem sách. Lý Trung có gửi thơ cho Lưu Minh Phủ rằng: “Tam thập niên tiền cộng khổ tâm, nang huỳnh tằng kỷ thử yên sầm”: ba mươi năm trước cùng khổ tâm, túi đom đóm từng soi cảnh tối tăm.
32. Lý Mật: người đời Tùy, quê ở Tương binh, tính ham học, nhiều mưu kế, thường cỡi trâu đi chơi núi, ngồi trên mình trâu đọc sách. Lúc nhà Tùy loạn, giúp con Dương Tố là Dương Huyền mưu tranh thiên hạ, nhưng bị Vương thế Sung đánh bại, phải về hàng nhà Đường, làm quan Quan lộc khanh.
33. Chí khí cao rộng.
34. Tam tự kinh: “Oanh bát tuế năng vịnh thi”: cậu Oanh mới lên tám tuổi đã biết vịnh thơ.
35. Tô Lão Tuyền tức Tô Tuân người My sơn đời nhà Tống 27 tuổi mới phẫn chí đi học, thông hiểu các học thuyết lục kinh, bách gia, viết văn rất cổ kính. 36. Âu Dương Tu cùng Hán Kỳ tâu vua Tống, được cử làm Hiếu thư lang. Hai con trai là Tô Thức hiệu Đông Pha và Tô Triệu hiệu Đĩnh Tần đều đỗ Tiến sĩ đời Tống có tiếng là bậc văn hào.
37. Tam tự kinh: “Đường Lưu Án, phương thất tuế, cử thần đồng, tác chính tự”: Lưu Án nhà Đường mới lên bảy tuổi, đỗ khoa Thần đồng, làm quan Chính tự.
38. Tam tự kinh: “Nhược Lượng Hựu, bát thập nhị, đối đại đình, khôi đa sĩ”: như ông Lương Hựu, 82 tuổi vào thi ở sân nhà vua, đỗ đầu các học trò.
39. Đường mây, ý nói tiền đồ rộng rãi bằng phẳng, cũng như nói “thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì”.
40. Câu này do câu “Xuất môn mặc hận vô nhân tuỳ, thư trung xa mã đa như thốc”: ra cửa đừng sợ không có người hầu, trong sách xe ngựa nhiều như mũi tên.
41. Do câu: “thư trung tự hiểu thiên chung túc”: trong sách khắc có ngàn hộp thóc.
42. Do câu: “thư trung hữu nữ nhân như ngọc”: trong sách có gái đẹp mặt như ngọc.
43. Nhà nghèo vắng vẻ, lạnh lẽo.
44. Trong sách có nhà cao tường vẽ.
45. Mong như thánh, mong như hiền.
46. Nơi rừng núi rậm rạp, rừng rú.
47. Nổi tiếng lúc bấy giờ.
48. Câu này ý nói sẽ có ngày ngựa nọ xe kia, nhà này dinh khác, nghĩa là phong lưu phú quí.
Tổng hợp