365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 19 tháng 11: Thơ thiền Bạch Cư Dị

Bạch Cư Dị (Đường) (722 – 846)

Bài thơ uống rượu

Thân phận ốc sên tranh chuyện chi

Đá kia phát lửa có vui gì?

Giàu nghèo cứ mặc lòng thụ hưởng

Chớ vội chê cười kẻ mê si.

*

Hoa trong chốn Tăng phòng

Tu hành nên tỏ lý sắc không

Hạt giống Phật tăng khéo vui trồng

Rõ xem ấy chính Hoa nghiêm kệ

Phương tiện mở bày trí tuệ thông.

*

Suối Bạch Vân

Ngọn Thiên Bình ấy suối Bạch Vân

Nước xanh mây trắng tự trong ngần

Trên đình núi cao lao xuống thẳng

Có sao sóng vỗ thế nhân tâm?

*

Hoa chẳng phải hoa

Hoa chẳng phải hoa, sương chẳng sương

Nửa đêm chợt đến sáng lên đường

Đến như xuân mộng bao nhiêu độ

Đi thời mây sớm biết đâu tường.

*

Quán huyễn

Có sinh thời sẽ có diệt thôi

Chẳng phút giây nào được thảnh thơi

Vui mừng hết đến nỗi đau khổ đó

Đau khổ rồi cùng hóa không thôi.

Tuổi già chợt đến mắt mờ đi

Như đèn trước gió có khác gì

Tìm chi giữ chốn vô minh đó

Chim trời lưu dấu có mấy khi.

*

Đọc thiền kinh

Đời là ảo tưởng đấy thôi

Vô dư an trụ ấy thời hữu dư

Lời nói cũng chính phù hư

Mộng trong giấc mộng nhất như khác gì?

Không hoa quả ấy mong chi

Mặt trời thiêu đốt cá thì tìm đâu

Động thiền thời cũng như nhau

Chẳng thiền, chẳng động niệm câu ngộ thiền.

— Trích từ “Bạch Cư Dị thi tập hiệu chú”

*

Vấn đạo Thiền sư Điểm Khỏa

Riêng vào của Không vấn khổ, không

Việc thiền dám lại hỏi Thiền ông

Phù sinh việc ấy xem như mộng

Phù sinh với mộng há chẳng đồng?

— Trích từ “Võ lâm Tây Hồ cao tăng sự lược”

Bạch Cư Dị (chữ Hán: 白居易; 772 – 846), biểu tự Lạc Thiên (樂天), hiệu Hương Sơn cư sĩ (香山居士), Túy ngâm tiên sinh (醉吟先生) hay Quảng Đại giáo hóa chủ (廣大教化主), là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường. Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Đối với một số người yêu thơ văn thì người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ.

Những năm đầu, ông cùng Nguyên Chẩn ngâm thơ, uống rượu, được người đời gọi là Nguyên Bạch (元白). Sau này, khi Nguyên Chẩn mất, lại cùng Lưu Vũ Tích, hợp thành cặp Lưu Bạch (劉白). Đường Tuyên Tông gọi ông là Thi Tiên (詩仙)

Ông chủ trương đổi mới thơ ca. Cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịch, Vương Kiến, ông chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức. Ông nói: “Làm văn phải vì thời thế mà làm… Làm thơ phải vì thực tại mà viết”, mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân. Thơ của ông lan truyền trong dân gian, thậm chí lan sang ngoại quốc như Tân La, Nhật Bản, có ảnh hưởng rất lớn.

Tác phẩm lớn nhất của ông phải kể đến Trường hận ca, Tỳ bà hành, Tần trung ngâm,.. và Dữ nguyên cửu thư.

(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/)

Bài viết bạn có thể quan tâm: 

365 ngày cho cuộc lữ hành – Trải nghiệm từ kinh điển Phật giáo và văn học Trung Hoa- Lời tựa của Đại sư Tinh Vân

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *