Nhớ rằm tháng hai
Non Bình San lững lờ bóng nguyệt
Nước Đông Hồ man mác hơi may
Cũng rằm năm ngoái tháng này,
Cũng trong, cũng nước non này năm xưa
Cảnh năm trước vẫn là năm trước,
Tình năm xưa đã khác năm xưa,
Này trăng, này núi, này hồ,
Mà người cùng ngắm bây giờ là đâu?
Chợt nhớ thuở trăng nhô đầu núi,
Dưới bóng trăng lủi thủi bóng ai.
Bóng ai tha thướt cành mai,
Cành mai tuyết điểm, cành mai trăng lồng.
Ta cùng ai thong dong dưới nguyệt,
Sẽ dang tay người ngọc thẩn thơ.
Hồ Đông một vũng nông sờ,
Non Bình một dãy tờ mờ ngọn cao.
Em mới hỏi: “Trăng sao sáng tỏ,”
Ánh đáp rằng: “Trăng có đôi ta”
Bây giờ em đã vắng xa,
Vầng trăng cũng vẫn chưa loà bóng gương.
Ấy mới biết trăng thường soi tỏ,
Mà lòng ta vẫn có với nhau.
Màu trắng cũng vẫn một màu,
Mà màu mai tuyết thế nào, đổi thay?
Khóm lau lách lung lay trận gió,
Khiến lòng anh nhớ chỗ năm xưa.
Bóng ai trăng dãi thướt tha,
Tiếng ai gió thổi gần xa đòi hồi.
Nay vẻ tuyết chiều mai đã vắng,
Tiếng ai còn văng vẳng bên mình.
Bụi hồng đã mỏi mắt xanh,
“Xa xôi ai có hay tình chăng ai?”
Đi về những lối này năm nọ,
Anh vắng em, anh nhớ xiết bao.
Non Bình này vẫn cao cao,
Nước Hồ kia vẫn một màu xanh xanh.
Ngơ ngẩn mãi với tình non nước,
Nước cùng non đôi bức sầu treo
Nước non, non nước đìu hiu,
Người xưa cảnh cũ biết bao nhiêu tình!
Nhớ Rằm Tháng Hai – Nỗi Niềm Dưới Trăng Cũ
Có những khoảnh khắc trong đời, dù thời gian có trôi đi, cảnh vật vẫn vẹn nguyên như thuở ban đầu, nhưng lòng người đã đổi khác. Đông Hồ trong “Nhớ rằm tháng hai” đã để lòng mình trôi theo ánh trăng, để nỗi nhớ chảy dài trên mặt hồ Đông, để hoài niệm vọng về những ngày tháng cũ, nơi có một bóng hình đã từng kề bên.
Trăng xưa, cảnh cũ, lòng người đổi thay
“Cũng rằm năm ngoái tháng này,
Cũng trong, cũng nước non này năm xưa.”
Bài thơ mở đầu bằng sự trùng điệp của thời gian và không gian, một đêm rằm tháng hai của năm nay cũng giống như năm trước. Ánh trăng vẫn soi trên đỉnh Bình San, mặt hồ Đông vẫn trải rộng dưới làn hơi may. Cảnh vật tưởng như vẹn nguyên, nhưng lòng người đã đổi khác:
“Cảnh năm trước vẫn là năm trước,
Tình năm xưa đã khác năm xưa.”
Câu thơ vừa nhẹ nhàng, vừa thấm thía. Phải chăng con người luôn mong muốn tìm lại những khoảnh khắc xưa, nhưng khi đối diện với thực tại, chỉ thấy sự trống vắng của lòng mình? Trăng vẫn còn đó, núi vẫn còn đây, nhưng người từng cùng ngắm cảnh nay đã xa.
Nhớ bóng hình trong đêm nguyệt tỏ
Đông Hồ tiếp tục đưa người đọc vào miền ký ức, nơi có hình bóng ai lặng lẽ dưới trăng:
“Dưới bóng trăng lủi thủi bóng ai.
Bóng ai tha thướt cành mai,
Cành mai tuyết điểm, cành mai trăng lồng.”
Hình ảnh ấy mơ hồ nhưng lại hiện lên đầy ám ảnh. Người từng cùng ta bên nhau, giờ chỉ còn là ký ức. Hình bóng ấy như vẫn lẩn khuất trong những tán mai, trong ánh nguyệt bàng bạc, khiến lòng người day dứt khôn nguôi.
Hồi ức tiếp tục vẽ nên những khoảnh khắc yêu thương xưa cũ:
“Em mới hỏi: ‘Trăng sao sáng tỏ,’
Anh đáp rằng: ‘Trăng có đôi ta’
Bây giờ em đã vắng xa,
Vầng trăng cũng vẫn chưa loà bóng gương.”
Một câu trả lời đầy ngọt ngào ngày trước, giờ đây chỉ còn là nỗi trống trải. Em không còn bên cạnh, nhưng trăng vẫn tròn, ánh nguyệt vẫn tỏa. Phải chăng, thiên nhiên là chứng nhân của những mối tình, nhưng cũng chính là kẻ lạnh lùng lưu giữ những điều xưa cũ mà lòng người chẳng thể quay về?
Nỗi sầu treo trên non nước
Nỗi nhớ trong bài thơ không chỉ là nhớ một con người, mà còn là nhớ cả một không gian đã từng đong đầy kỷ niệm. Khóm lau lách lao xao trong gió như gợi lại tiếng cười, lời nói của người xưa. Nhưng tất cả chỉ còn là âm vang mơ hồ:
“Nay vẻ tuyết chiều mai đã vắng,
Tiếng ai còn văng vẳng bên mình.”
Cuối cùng, Đông Hồ để lòng mình trôi theo cảnh vật, hòa mình vào non nước Hà Tiên:
“Ngơ ngẩn mãi với tình non nước,
Nước cùng non đôi bức sầu treo.”
Người đi, cảnh còn, nhưng cảnh chẳng thể vơi bớt nỗi lòng. Trăng, non, nước – ba hình tượng ấy như cùng chia sẻ nỗi cô đơn, như treo một niềm sầu trên nền trời Hà Tiên tĩnh lặng.
Lời kết – Nhớ thương như nước, như trăng
“Nhớ rằm tháng hai” không chỉ là một bài thơ tả cảnh hay hoài niệm, mà còn là tiếng lòng sâu thẳm của một con người đang đứng trước dòng chảy vô tình của thời gian. Có những điều không đổi thay – như trăng, như núi, như nước, nhưng cũng có những điều không thể nào giữ lại – như tình cảm, như một bóng hình đã xa.
Bài thơ mang đến cho người đọc một nỗi buồn dịu dàng nhưng khắc khoải, một sự tiếc nuối nhẹ nhàng nhưng da diết. Đông Hồ không chỉ viết về nỗi nhớ, mà còn viết về sự vô thường của kiếp người, nơi tất cả rồi sẽ trở thành quá khứ, và chỉ có thiên nhiên là mãi mãi lặng lẽ chứng kiến những cuộc chia ly, những mối tình chưa trọn vẹn.
*
Đông Hồ – Nhà thơ và người bảo tồn văn hóa dân tộc
Đông Hồ (1906-1969), tên thật Lâm Tấn Phác, là một nhà thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học có tầm ảnh hưởng lớn đối với nền văn học Việt Nam. Sinh ra tại Hà Tiên, vùng đất giàu truyền thống văn hóa, ông sớm bộc lộ niềm say mê đối với quốc văn và quốc ngữ, từ đó dành trọn đời để nghiên cứu, giảng dạy và sáng tác bằng tiếng Việt.
Là thành viên của nhóm “Hà Tiên tứ tuyệt”, Đông Hồ không chỉ sáng tác thơ mà còn viết văn, ký, khảo cứu, góp phần quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy văn hóa dân tộc. Ông từng sáng lập Trí Đức học xá, xuất bản tuần báo Sống, điều hành nhà xuất bản Bốn Phương và tạp chí Nhân Loại, với mục tiêu cổ vũ tinh thần dân tộc, đề cao giá trị tiếng Việt.
Thơ và văn của ông nhẹ nhàng, sâu sắc, giàu tình cảm, đi từ thể loại truyền thống đến hiện đại. Những tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến Thơ Đông Hồ, Linh Phượng, Cô gái xuân, Hà Tiên thập cảnh… Bên cạnh đó, ông cũng được biết đến là người tiên phong trong việc phát triển thư pháp chữ Quốc ngữ.
Cuộc đời và sự nghiệp của Đông Hồ là minh chứng cho một tấm lòng tha thiết với văn hóa Việt Nam. Ông mất năm 1969 ngay trên bục giảng khi đang giảng bài thơ Trưng Nữ Vương, để lại một di sản văn học đáng trân trọng.
Viên Ngọc Quý