ĐÓA HOA TỪ BI TRONG VÙNG TỐI

Truyện ngắn

Tôi ngồi bên ô cửa gỗ của quán chay “Sen Hồng” nhìn ra con hẻm nhỏ phủ sương cuối tháng tư. Mùi hương trầm, mùi ngải cứu trên bếp và tiếng mõ của chú tiểu đang tụng công phu sớm từ ngôi chùa đối diện hoà vào nhau thành một dòng ký ức thẳm sâu.

Quán chay này từng là lò bê thui lớn nhất vùng. Mười sáu năm trước, tôi, thằng nhóc tên Tâm mới lên mười, đã chứng kiến một đêm không sao quên, đêm khiến cả cuộc đời tôi rẽ sang hướng khác, như dòng nước bị cành hoa sen rơi xuống làm lệch.

Quãng vườn sau nhà, nơi cha tôi buộc mấy con bò vỗ béo chờ xuất lò, luôn sực mùi cỏ gà trộn rơm khô. Đêm ấy, trăng khuyết dựng trên đỉnh tre, hắt ánh bạc lờ mờ xuống vũng bùn in dấu móng guốc.

Tôi giật mình tỉnh giấc bởi tiếng rống thất thanh, tiếng rống xé toạc im lặng giống tiếng kèn ai tán. Biết cha cùng ba bác phu đang chuẩn bị “làm thịt” con bê, tôi kéo chiếc áo len, lén rời khỏi buồng. Từ khe ván sau chuồng, tôi thấy chúng giữ bốn chân và đầu con bê. Chiếc sừng non xanh lấm tấm sợi cỏ còn dính. Búa sắt vung lên.

Choang!

Chiếc sừng vỡ, chìm vào hộp sọ mềm. Con bê bật cả bốn chân khỏi sàn, bụng trắng co giật, mắt đẫm nước. Máu trào, luồn qua kẽ xi-măng thành một tia sáng đỏ đen dưới trăng. Tôi kinh hoàng ôm miệng, nhưng tiếng thét của con bê chưa kịp tắt thì tiếng mẹ nó vang dội từ chuồng kế bên: một âm thanh trầm, ngân dài, run rẩy, như thể cả đất cũng rung lên vì nỗi xót xa. Tôi nghe hơi thở mình vỡ vụn, nghe ngực đập như trống trận.

Tôi chạy. Qua sân, qua căn bếp tối và trượt ngã bên luống cải ngọt, nước mắt lẫn sương úa trên má. Từ bóng tối, tiếng nhà sư gõ mõ công phu đầu canh bỗng vọng đến: “Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh.” Tôi không hiểu, chỉ thấy câu kinh quấn chặt chuỗi nghẹn nơi cổ họng.

Ba ngày sau, cơn ác mộng vẫn không buông. Hễ nhắm mắt, tôi lại thấy đốm lửa trên trán bê con, đốm lửa của cú búa, cháy xuyên màn đêm. Sáng nọ, tôi lần sang chùa Pháp Liên, nấp sau tượng Quan Âm, lén nhìn nhà sư già tụng Diệu Pháp Liên Hoa. Sư dừng lại, nhìn tôi qua cặp kính mờ:

– Cháu có sợ không?

– Con… không ngủ được. Mỗi lần nhắm mắt là con bê lại kêu.

– Tiếng kêu đó không nằm ngoài cháu, cũng không nằm trong con bê. Nó là tiếng khổ. Thấy khổ là có hạt giống từ bi.

Ngài đặt vào tay tôi chiếc chuông nhỏ bằng đồng xanh.

– Khi bất an, cháu thở vào, thở ra ba hơi, khảy nhẹ chuông. Tiếng chuông đánh thức Phật tánh.

Đêm đó, bên cửa sổ, tôi khảy chuông. Âm thanh ngân gọn, tan vào bóng tối như giọt sương tan vào lá. Nhịp tim chậm lại. Lần đầu tiên tôi hiểu thế nào là nhìn thẳng nỗi sợ không phải để gạt bỏ, mà để rọi ánh sáng chánh niệm lên nó.

Tôi theo sư cụ học cách tụng bài kệ “Không giết hại”. Thầy giảng rằng mỗi sinh linh đều muốn sống; lấy mạng nó, tức gieo mầm run rẩy trong chính tâm mình. Nhưng cha tôi, người đàn ông gân guốc, sống cả đời bằng nghề lò mổ, chỉ cười xòa khi nghe tôi lắp bắp nói về từ bi.

– Con nghĩ cha đổi nghề, bỏ cả gia tài à? Ta giết, họ ăn, thiên hạ vui. Trời sinh cỏ cho bò, bò cho người, thế thôi.

Tôi không cãi được. Mấy đêm sau, cha đưa về thêm một bê con. Tôi bước lại, đặt tay lên trán nó. Mắt nó nâu, ướt, phẳng lặng như mặt ao. Bất giác, tôi nghe lời sư vang trong đầu: “Nếu lò mổ có vách kính, thiên hạ sẽ ăn chay.” Vách kính ấy đang dựng trong lòng tôi; mỗi hình ảnh ghim vào như mảnh kính vỡ, cứa vào da thịt ý thức.

Tháng bảy, miền Trung bão lớn. Gió hất bay mái rơm. Đêm mưa xối xả, cha và đám phu dồn mấy con bò vào kho chờ nước rút. Một con bò mẹ vùng vẫy sợi xích, húc sập chốt cửa, lao ra mưa gió. Cha đuổi theo, trượt chân, bị sừng đâm ngang hông, ngã quỵ.

Tôi ôm lấy cha, thấy máu nóng hòa nước mưa, thấy mắt bò bắn tia hoảng loạn. Trong phút chớp giật, tôi hiểu sự quay lại của nghiệp báo không phải đợi kiếp sau. Đau đớn cha cảm nhận chính là run rẩy con vật đã nếm. Bò mẹ bị người ta tóm lại, trói chặt hơn. Tôi nghĩ đến lời Phật: “Oan oan tương báo, hà thời liễu.”

Cha nằm viện sáu tháng. Vết thương nhiễm trùng, chân trái mất cảm giác, không còn sức cầm búa. Tôi ngồi cạnh giường kể ông nghe mọi cơn ác mộng, câu chuyện chuông nhỏ. Cha lặng đi. Rồi, như thể cả đời chỉ chờ khoảnh khắc buông, ông bảo:

– Ta không muốn con phải nghe tiếng khóc ấy thêm lần nữa.

Chúng tôi bán lò mổ. Tiền thu được, cha góp một nửa tu sửa bếp ăn từ thiện ở chùa Pháp Liên, nửa còn lại mở quán chay nhỏ. Ngày quán khai trương, trời lất phất mưa phùn. Cha, khập khiễng chống nạng, đứng trước cửa, đốt que hương cúi lạy bốn phương. Ông treo trên vách bức hoạ “Bồ-tát Sư Tử Tướng” đang nâng nhẹ một cánh sen. Dưới tranh, cha đặt chiếc búa sắt năm xưa, giờ gỉ sét, cạnh cái chuông đồng của tôi. Tấm bảng treo nhỏ: “Thức tỉnh để thương.”

Khách lạ ghé, ngạc nhiên trước món phở nấm có hương vị ngọt lạ; cha cười, chỉ nói nhờ nước dùng lâu năm chắt từ những giọt sám hối. Tôi phụ bếp, thái đậu hũ, nghe tiếng dao va thớt như nhịp mõ thiền. Mỗi tối, cha lại kể tôi nghe kinh Vô Lượng Thọ, giảng đoạn “tâm từ bi sinh ra vô úy”, khi lòng thương chín, sợ hãi mờ.

Một lần, hội thiện nguyện mời cha chia sẻ. Ông trầm giọng:

– Tôi từng nghĩ mình mạnh khi vung búa. Sau này mới hiểu, mạnh nhất là buông búa. Cú buông đó không giết chết miếng cơm, mà cứu sống phần người trong tôi.

Thời gian dệt thêm sợi bạc trên tóc cha, nhưng giọng ông trong hơn, như chuông đồng sau nhiều năm bụi gom lại được lau chùi. Tin đồn về lò bê thui “hoá chay” lan xa. Nhiều tiểu thương ghé quán, lúc đầu chỉ tò mò. Họ chưa dám từ bỏ thịt cá, song khi nhìn ký ức chiến tranh, nghèo đói và bạo lực trong đôi mắt con vật phản chiếu trong giọt dầu sôi, họ lặng lẽ gắp thêm rau.

Tối nào cũng vậy, trước giờ đóng cửa, cha khảy ba tiếng chuông. Tôi nghe âm thanh xuyên qua tiếng xe máy, đèn neon và quảng cáo karaoke, lan ra như vòng sóng trên mặt hồ. Ai đi ngang cũng khựng một giây, như bị nỗi tỉnh thức vô hình vỗ nhẹ vai.

Năm tôi hai mươi sáu, cha mất vì tai biến lần hai. Trước khi nhắm mắt, ông nhìn chiếc búa cũ, mỉm cười:

– Nó giờ là chuông cảnh tỉnh, không phải hung khí.

Tôi đặt búa vào tay cha, ráp cùng chuông nhỏ. Sư cụ tụng Từ Bi Thuỷ Sám, khói trầm cuộn quanh quan tài, gợi hình tán đại thọ che cả vùng đất người và súc sinh.

Tang xong, tôi ngồi bên bếp lửa, nhớ lại đêm trăng khuyết năm nào. Tôi chợt hiểu: nếu không có chiếc búa ấy, tôi đã không thấy tận chân sự đau; nếu không có đau, tôi đã không khởi lòng thương; nếu không thương, tôi không thể tiếp nối ngọn đèn cha gửi gắm.

Quán “Sen Hồng” nay là điểm hẹn của những người khát tìm vị từ bi. Mỗi bát canh, tôi ướp thêm một nhúm thiền quán: thấy rõ hành tinh này cuộn trong lá rau, thấy gió, mưa, người nông phu, và cả giọt nước mắt bê con thuở ấy.

Tôi treo tấm kính dọc vách, phản chiếu bếp mở để khách nhìn, vách kính mà Philip Wollen nhắc đến. Ai nhìn qua cũng thấy chính mình đứng cắt hành, đứng rửa rau; thấy bàn tay mình có thể là dao chém, cũng có thể là chén cơm hiền.

Thi thoảng, một em bé theo mẹ vào quán, chạy đến hỏi tôi vì sao trên kệ lại có chiếc búa cũ. Tôi cúi xuống:

– Vì búa biết hối hận nên hoá thành chuông. Khi con khảy, hãy lắng nghe xem tiếng chuông ấy có giống nhịp tim con không. Tim con khát sống, con bê cũng khát sống.

Đứa trẻ cầm chuông, gõ “ting” rồi cười, nụ cười lan như ánh nắng đầu hạ. Tôi nhìn ra hẻm: nắng rọi lên mái ngói loang lổ rêu, lấp loáng giọt sương. Thế giới, dù từng trĩu nặng máu và nước mắt, vẫn đủ chỗ cho một bông sen nở.

Đêm rằm, tôi chèo chiếc ghe nhỏ thả đèn hoa đăng trên sông Hương. Mỗi hoa đăng tượng trưng một sinh linh từng lìa đời trong lò mổ. Gió đưa hương bưởi, sóng lăn tăn. Tôi nhớ lời Kinh Kim Cang: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng; Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.” Thân bê con, thân cha tôi, thân tôi, đều là tướng hư vọng; nhưng khổ và thương nơi mỗi thân lại thật như từng nhịp đập. Tôi cúi đầu, chắp tay:

– Nguyện cầu cho tất cả hữu tình, biết sợ mà không hoảng loạn, biết thương mà không tuyệt vọng.

Ở xa, tiếng chuông chùa ngân ba hồi, trầm lắng như trái tim Trái Đất. Tôi mỉm cười, nụ cười lần đầu không vướng vị máu, chỉ ướp tinh mùi cỏ sữa và lá sen. Đằng đông, trăng tròn như chiếc bát gỗ của chư Tăng, phản chiếu ánh vàng trên nước biếc. Có lẽ trăng cũng đang tụng một bài kệ vô ngôn: kệ về sự sống, kệ về cú buông búa đã ươm mầm một đóa hoa hồng giữa vùng tối.

Sau cùng, nếu có ai hỏi tôi vì sao chọn sống đời rau củ, tôi sẽ kể họ nghe truyện đêm trăng khuyết và chiếc chuông đồng. Nhưng có thể họ chẳng cần nghe dài. Chỉ cần đặt tay lên ngực, lắng nhịp tim mình, rồi nhìn thẳng vào đôi mắt bất cứ con vật nào. Trong khoảnh khắc giao thoa ấy, dẫu búa chưa buông, vách kính chưa dựng, một đóa sen từ bi đã đủ sức xô lệch con đường đẫm máu, mở ra con đường mới, con đường không còn bóng đêm.

Nguồn: Nhà báo Lê Thọ Bình

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *