365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 2 tháng 2: Tặng người may áo; Chốn núi sâu

Tặng người may áo

Thạch Ốc Thanh Củng (Nguyên) (1272 – 1352)

Tay cầm kéo thước đến muôn phương

Chỉ đến kim đi phải đảm đương

Đo đếm áo người dài với ngắn

Còn ta ưu khuyết có ai lường?

*

Chốn núi sâu

Lợi danh mải miết đua tranh

Sao bằng một góc an lành chốn quê

Vô minh cỏ ấy chẳng hề

Trí tuệ hoa nở sum suê rợp vườn.

Măng rau bên lối còn vương

Rêu xanh phủ kín bên tường trần ai

Ngoài ba mươi tuổi đến đây

Hoàng hôn mấy độ phủ đầy bên song.

Bốn mươi hơn ẩn thong dong

Chẳng màng thế sự đục trong cơ đồ

Khuya lạnh đốt lá tùng khô

Trưa đến rau dại, cơm thô ấm lòng.

Mây trời non nước ý trong

Bình minh khẽ gọi dụng công tọa thiền

Khách đến chẳng ngại làm phiền

Đạt Ma công án lặng yên trở về.

– Trích từ “Phúc Nguyên Thạch Ốc Củng thiền sư ngữ lục”

*

Thạch Ốc Thanh Củng (zh. 石屋清珙 Shiwu Qinggong, 1272-1352) là một vị Thiền sư Trung Quốc đời Nguyên, thuộc phái Dương Kỳ và phái Phá Am của tông Lâm Tế. Sư được biết đến là một nhà ẩn sĩ và thi sĩ nổi tiếng của Trung Quốc với nhiều bài thơ còn được lưu truyền đến ngày nay. Dòng Thiền Lâm Tế của Sư được truyền vào bán đào Triều Tiên thông qua hai đệ tử là Bạch Vân Cảnh Nhàn và Thái Cổ Phổ Ngu.

Cơ duyên và hành trạng

Sư họ Văn, sinh vào năm Hàm Thuần thứ 8 (1275) thời Nam Tống, quê ở Thường Thục, Giang Tô, mẹ tên là Lưu Thị. Lúc mẹ sinh ra Sư, có ánh sáng lạ xuất hiện. Năm 20 tuổi, sư theo Pháp sư Duy Vĩnh ở Sùng Phước tự xuất gia. Đến năm 23 tuổi, sư thọ giới Cụ túc.

Tham học với Cao Phong

Đầu tiên, Sư lên núi Thiên Mục tham yết Thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu. Cao Phong hỏi: “Ông đến đây vì việc gì?” Sư trả lời: “Con vì cầu pháp mà đến!” Cao Phong bảo: “Pháp vốn không dễ cầu. Ông muốn cầu thì phải đốt ngón tay làm hương mới được!” Sư nói: “Nhưng chính con thấy Hoà thượng ngay trước mắt. Làm sao Pháp có thể che dấu được?” Thiền sư Cao Phong nghe vậy hài lòng thầm chấp nhận cho sư theo mình tham học và trao cho Sư câu thoại đầu “Vạn pháp quy nhất” để tham cứu.

Dù đã ở hội của Thiền sư Cao Phong hơn ba năm nhưng chỉ đạt được chút ít sở đắc nên Sư chán nản đến bái tạ để đi nơi khác tham học. Thiền sư Cao Phong bèn chỉ sư đến tham học với vị huynh đệ đồng thờ Thiền sư Tuyết Nham Tổ Khâm làm thầy là Thiền sư Cập Am Tông Tín (及庵宗信).

Đắc pháp nơi Cập Am

Băng qua sông Trường Giang, Sư tới được chỗ của Thiền sư Cập Am Tông Tín, lúc này đang trụ tại chùa Tây Phong gần Kiến Dương. Cập Am hỏi Sư đã được dạy những gì, Sư nêu lại câu thoại “Vạn pháp quy nhất”. Cập Am hỏi ý nghĩa của câu thoại này là gì nhưng Sư im lặng. Cập Am nói: “Đó chỉ là tử cú (câu chết). Ông đã nhặt được thứ rác rưởi đó ở đâu vậy?” Sư đảnh lễ và xin Cập Am chỉ dạy. Cập Am dạy Sư tham câu thoại “Nơi chư Phật trụ, đừng dừng lại; Nơi chư Phật không trụ, hãy mau đi qua.” Sư không hiểu nhưng vẫn quyết định ở lại với Cập Am.

Một ngày nọ, Cập Am hỏi Sư về câu thoại trên và Sư đáp: “Khi lên ngựa, thấy được con đường.” Cập Am không hài lòng và nhắc nhở Sư thêm một lần nữa. Sư lại rời đi nhưng khi xuống núi lúc thấy một cái đình thì Sư bỗng nhiên đại ngộ. Sư quay lại gặp Cập Am và nói: “Khi chư Phật trụ, đừng dừng lại. Đó là tử cú. Khi chư Phật không trụ, hãy mau đi qua. Đó cũng là tử cú. Bây giờ con đã hiểu được hoạt cú (lời sống).” Cập Am hỏi Sư hiểu được gì, Sư liền đáp: “Thời tiết thanh minh lúc mới mưa, Hoàng Ly đầu càng hót rõ ràng.” Cập Am gật đầu ấn chứng và tiên đoán rằng: “Về sau ta và ông sẽ ngồi chung một khám.”

Hoằng pháp

Khi Cập Am đến trụ trì tại đạo tràng ở Hồ Châu, Sư được giao quản lý tạng kinh các. Hoà thượng Cập Am nói với đại chúng về Sư rằng: “Người này là cá vảy vàng trong biển pháp.”

Lúc Cập Am dời tới chùa Linh Ẩn hoằng pháp, sư cũng được cử đến dạy Thiền cho các tăng sĩ khác trong chùa.

Đầu tiên Sư đến trú tại Phước Nguyên tự, sau lui về ẩn cư tại Thiên Hồ sơn ở gần Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang, lúc này Sư khoảng 40 tuổi. Tại đây Sư bắt đầu sống cuộc đời của một người ẩn sĩ xa lánh thế tục. Dù thiếu thốn về vật chất nhưng Sư không bao giờ nhờ cậy sự giúp đỡ của đàn việt, nếu không có thức ăn thì Sư uống tạm nước để sống. Sư tính tình hiền lành, thương người, thương vật. Sư có sáng tác nhiều bài “sơn thi” mang đậm tính Thiền học, nhân văn, có ý nghĩ cảnh tỉnh người đời. Hoàng hậu nhà Nguyên vì quý trọng đức hạnh của Sư nên ban tặng cho Sư một tấm y ca-sa Kim lan.

Tháng 7 năm thứ 12 (1352) niên hiệu Chí Chính đời Nguyên, vào buổi sáng, sau khi nói lời từ biệt với các môn đệ, Sư thị tịch, thọ 81 tuổi. Vua Cao Ly ban thụy là Phật Từ Huệ Chiếu Thiền sư. Huynh đệ đồng môn của Sư là Thiền sư Bình Sơn Sử Lâm (trụ trì của Tịnh Từ tự) đã đến núi Thiên Hồ và thu gom một nửa di vật của Sư và gửi sang Cao Ly cho pháp tử của Sư là Thiền sư Bạch Vân Cảnh Nhàn và Thải Cổ Phổ Ngu. Các vị này đã xây một ngôi chùa để bảo quản và thờ cúng các di vật trên.

Tác phẩm

Các tác phẩm do chính Sư sáng tác hoặc được đệ tử sưu tập còn lưu truyền đến nay là:Thạch Ốc Thanh Củng Thiền Sư Sơn Cư Thi (zh. 石屋清珙禪師山居詩); Thạch Ốc Thanh Củng Thiền Sư Ngữ Lục (zh.石屋清珙禪師語錄); Thạch Ốc Thanh Củng Thiền Sư Thi Tập (zh. 石屋珙禪師詩集). Ngoài ra một số sách về văn học cũng có đưa các bài thơ của Sư vào như Cổ Kim Thiền Tảo Tập (zh. 古今禪藻集) là 25 bài, Nguyên Thi Tuyển (zh. 元詩選) là 33 bài và Tống Nguyên Thi Hội (zh. 宋元詩會) là 12 bài.

Một bài thơ trong Sơn Cư Thi thể hiện tính nhân văn, khuyên người hướng thiện của Sư:

Hán văn

三 十 餘 年 住 崦 西。

钁 頭 邊 事 不 吾 欺。

一 園 春 色 熟 茶 筍。

數 樹 秋 風 老 栗 梨

山 頂 月 明 長 嘯 夜

水 邊 雲 暖 獨 行 時

舊 交 多 在 名 場 裡

竹 戶 長 開 待 阿 誰

Phiên âm

Tam thập dư niên trú yêm tây

Quắc đầu biên sự bất ngô khi

Nhất viên xuân sắc thục trà duẩn

Số thụ thu phong lão lật lê

Sơn đỉnh nguyệt minh trường khiếu dạ

Thuỷ biên vân noãn độc hành thời

Cựu giao đa tại danh trường lý

Trúc hộ trường khai đãi a thuỳ?

Dịch nghĩa

Dư ba mươi năm yêm tây trú

Việc cầy bừa nào có thiếu đâu

Một vườn Xuân sắc toàn trà nụ

Vài cây giẻ, lê đón gió Thu

Hát suốt đêm trăng, trên đỉnh núi

Bên dòng nước, mây ấm trôi đi

Bạn cũ đều trong trường danh lợi

Cửa tu mở rộng chờ ai ni?

Một bài Sơn Thi khác mà Sư dùng đối tượng bên ngoài (cảnh) để thể hiện triết lý vô tâm của Thiền tông:

Hán văn

松 下 雙 扉 泠 不 扃

一 龕 金 像 照 青 燈

眠 雲 野 鹿 驚 回 夢

落 澗 獼 猴 墜 折 藤

得 意 看 山 山 轉 好

無 心 合 道 道 相 應

多 時 不 向 門 前 去

蘚 葉 苔 花 積 幾 層

Phiên âm

Tùng hạ song phi lãnh bất quynh

Nhất kham kim tượng chiếu thanh đăng

Miên vân dã lộc kinh hồi mộng

Lạc giản mi hầu truỵ chiết đằng

Đắc ý khán sơn sơn chuyển hảo

Vô tâm hợp đạo đạo tương ưng

Đa thời bất hướng môn tiền khứ

Tiển diệp đài hoa tích kỷ tầng.

Dịch nghĩa

Dưới tòng hai cửa lạnh, không đóng

Tượng vàng trong khám chiếu thanh đăng

Mây và nai rừng kinh tỉnh mộng

Dưới suối bầy khỉ rơi, bám cành

Đắc ý, nhìn núi, núi chuyển tốt

Vô tâm hợp đạo, đạo tương ưng

Nhiều khi không đi ra cửa trước

Hoa lá, rong rêu đã mấy từng.

(nguồn:https://vi.wikipedia.org)

Bài viết bạn có thể quan tâm: 365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 1 tháng 2: Các điều tối thượng; Tinh cần như giữ kho báu

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *