Bài thơ “Nhà thờ” – Đồng Đức Bốn

Nhà Thờ

“Vào đây không để cầu kinh

Chỉ thương chúa bị đóng đinh trên người”

(Sài Gòn, đêm Nôen 1986)

Bài thơ “Nhà thờ” của nhà thơ Đồng Đức Bốn, chỉ vỏn vẹn hai câu nhưng lại mở ra một không gian cảm xúc mạnh mẽ và đầy bất ngờ. Bài thơ giống như một bức họa siêu thực, mà mỗi nét vẽ đều chất chứa sự mỉa mai nhẹ nhàng nhưng sâu cay, đánh thức những suy tư về tín ngưỡng và thân phận con người.

“Vào đây không để cầu kinh”

Câu mở đầu là một cú đánh thẳng vào sự kỳ vọng thường thấy khi bước vào không gian nhà thờ – một nơi linh thiêng để cầu nguyện, tìm kiếm sự cứu rỗi. Thế nhưng, nhân vật trữ tình lại khẳng định ngay từ đầu rằng mình “không để cầu kinh”. Hành động này không chỉ phá vỡ quy chuẩn tôn giáo mà còn mang dáng dấp của một kẻ lạc lối, không thuộc về quy tắc, không bị gò bó bởi tín điều.

Ở đây, nhà thơ đã khéo léo sử dụng hình ảnh nhân vật như một kẻ phiêu bạt, bước vào nhà thờ chỉ để “quan sát” chứ không để “thờ phụng”. Câu thơ này như một cú nhấn nhá, đánh thức những ai đang quen sống trong khuôn khổ suy nghĩ: Liệu tín ngưỡng chỉ là nơi để cầu kinh hay còn là nơi để nhìn nhận chính mình?

“Chỉ thương Chúa bị đóng đinh trên người”

Câu thơ thứ hai bất ngờ chuyển hướng, từ sự vô thần mang hơi hướng trào phúng của câu trước, bỗng xoáy sâu vào nỗi thương cảm với Chúa – một biểu tượng tôn giáo tối cao. Cái “thương” ở đây không phải là một lòng sùng bái, mà là sự thấu hiểu cay đắng. Ẩn sau hình ảnh “Chúa bị đóng đinh” không chỉ là biểu tượng của sự hi sinh cao cả mà còn là nỗi đau của con người giữa đời thực.

Nhân vật trữ tình không thương Chúa vì Người là Đấng cứu thế, mà thương Chúa như một con người, một “người chịu khổ đau”. Đồng Đức Bốn ở đây dường như đã biến nhà thờ thành một “sân khấu đời”, nơi Chúa không chỉ đại diện cho sự thánh thiện mà còn là hiện thân của những oan khuất, đau đớn mà con người thường phải đối mặt.

Phép ẩn dụ và sự trào phúng

Hình ảnh “Chúa bị đóng đinh” có thể được hiểu như một phép ẩn dụ sâu sắc về kiếp người bị giam cầm bởi những nỗi khổ đau, bất công trong cuộc sống. Phải chăng nhân vật trữ tình thương Chúa cũng là đang thương chính mình, thương những người đang bị “đóng đinh” bởi sự áp đặt của xã hội, bởi cái vòng lẩn quẩn của tội lỗi và chuộc tội?

Câu chuyện trở nên trào phúng ở chỗ, một người bước vào nhà thờ không để cầu nguyện mà lại “thương” Chúa, trong khi nhiệm vụ của Chúa là cứu rỗi con người. Đây không phải sự đảo ngược vai trò hay sao? Nhà thơ như đang mỉa mai những ai chỉ biết trông chờ vào đấng siêu nhiên mà không tự tìm cách giải thoát mình khỏi nỗi khổ.

Liên hệ với đời sống

Đọc “Nhà thờ”, người ta thấy đâu đó bóng dáng của những kẻ khốn cùng trong xã hội. Họ tìm đến nơi linh thiêng không phải để thờ phụng mà để tìm một chút yên bình, một sự đồng cảm trong những khổ đau. Đồng Đức Bốn đã tài tình khi không để bài thơ rơi vào sự sùng bái mù quáng, mà thay vào đó là một góc nhìn rất đời, rất người.

Chúa trong bài thơ không còn là một biểu tượng tôn giáo tuyệt đối, mà trở thành một “người bạn đau khổ”, một sự soi chiếu để con người tự nhận ra mình. Bài thơ như một cú huých, gợi nhắc rằng: Dù là trong nhà thờ, giữa đời thường, hay bất kỳ đâu, điều quan trọng nhất không phải là cầu kinh, mà là thấu hiểu và sẻ chia nỗi đau của nhau.

Bài thơ “Nhà thờ” của Đồng Đức Bốn mang phong cách hiện thực trào phúng nhưng không mất đi sự sâu sắc trong thông điệp. Chỉ với hai câu, ông đã phác họa một thế giới nội tâm đầy xung đột, giữa tôn giáo và hiện thực, giữa sự cao cả và nỗi đau đời thường. Chính sự trần trụi, thẳng thắn ấy làm cho bài thơ trở nên sống động và “con người” hơn bao giờ hết.

*

Về tác giả Đồng Đức Bồn

Nhà thơ Đồng Đức Bốn (30/3/1948 – 14/2/2006) được sinh ra trong một gia đình lao động nghèo ở ngoại ô Hải Phòng. Năm 1966, ông gia nhập lực lượng Thanh niên xung phong. Sau đó, ông làm thợ cơ khí (bậc 6 trên 7) tại Xí nghiệp Cơ giới của Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng (Hải Phòng), Xí nghiệp Cơ khí 20-7 rồi Công ty Xuất nhập khẩu gia cầm Hải Phòng. Ông được làm đại diện cho công ty này tại Hà Nội và bắt đầu sáng tác thơ vào cuối những năm 1980. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Đồng Đức Bốn mất ngày 14 tháng 2 năm 2006 tại nhà riêng ở thôn Song Mai, xã An hồng, huyện An Hải, Thành phố Hải Phòng khi ông 58 tuổi bởi bệnh ung thư phổi.

Đồng Đức Bốn có nhiều đóng góp quan trọng trong thể loại thơ lục bát. Thơ lục bát của ông với cách ngắt nhịp, dùng từ và rất giàu hình ảnh với tứ thơ sâu sắc đã chinh phục được bạn đọc. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhận xét về thơ của ông là trong khoảng 80 bài thơ, có khoảng 15 bài thơ cực hay, tài tử vô địch.
Tác phẩm:

Vào chùa
– Con ngựa trắng và rừng quả đắng (NXB Văn học, 1992)
– Chăn trâu đốt lửa (NXB Lao động, 1993)
– Trở về với mẹ ta thôi (NXB Hội nhà văn, 2000)
– Cuối cùng vẫn còn dòng sông (NXB Hội nhà văn, 2000)
– Chuông chùa kêu trong mưa (2002)
– Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (2006)

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *