Bài thơ: Đời vắng em rồi say với ai – Vũ Hoàng Chương

Đời vắng em rồi say với ai

Vũ Hoàng Chương

Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu,
Lênh đênh thương nhớ dạt trời Âu.
Thôi rồi, tay nắm tay lần cuối,
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau.

Trai lỡ phong vân gái lỡ tình,
Này đêm tri ngộ xót điêu linh,
Niềm quê sực thức lòng quan ải,
Giây lát dừng chân cuộc viễn trình.

Tóc xoã tơ vàng nệm gối nhung,
Đây chiều hương ngát lả hoa dung,
Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo,
Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng.

Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay,
Buồn mưa, trăng lạnh; nắng, hoa gầy.
Nắng mưa đã trải tình nhân thế
Lưu lạc sầu chung một hướng say.

Gặp gỡ chừng như truyện Liểu Trai.
Ra đi chẳng hứa một ngày mai.
Em ơi! lửa tắt, bình khô rượu,
Đời vắng em rồi, say với ai?

Phương Âu mờ mịt lối quê Nàng
Trăng nước âm thầm vạn dặm tang.
Ghé bến nào đây, người hải ngoại
Chiều sương mặt bể có mơ màng?

Tuyết xuống phương nào, lạnh lắm không?
Mà đây lòng trắng một mùa đông.
Tương tư nối đuốc thâu canh đợi,
Thoảng gió… trà mi động mấy bông.

(Bài thơ ban đầu có tên là Đời vắng em rồi, nhưng sau được đổi thành Đời vắng em rồi say với ai. Tên này sau cũng được dùng đặt cho một một tập thơ khác.)

Nguồn:
1. Vũ Hoàng Chương, Mây, NXB Đời nay, Hà Nội, 1943
2. Ta đợi em từ ba mươi năm, An Tiêm xuất bản, 1969

*

“Đời vắng em rồi say với ai” – Nỗi đau và vẻ đẹp của một tình yêu dang dở

Bài thơ Đời vắng em rồi say với ai của Vũ Hoàng Chương không chỉ là tiếng lòng của một người nghệ sĩ trước nỗi buồn chia ly, mà còn là bức tranh sống động về tình yêu trong sự mong manh của kiếp người. Với ngôn từ đậm chất thơ, từng câu chữ trong bài như những nhát cọ tài hoa khắc họa một nỗi đau đẹp đến nao lòng.

Tình yêu và chia ly – Sự bi tráng của đời người

Bài thơ mở đầu với hình ảnh biển cả “dấy sầu”, gợi lên không gian mênh mông nhưng chất chứa cô đơn. Cuộc chia ly giữa “tay nắm tay lần cuối” như khắc họa giây phút định mệnh, nơi mà tình yêu, dù mãnh liệt, cũng không thắng nổi dòng đời nghiệt ngã.

“Trai lỡ phong vân gái lỡ tình,
Này đêm tri ngộ xót điêu linh.”

Tình yêu của họ như hai dòng sông bất hạnh chảy ngược chiều nhau, gặp gỡ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, để rồi mãi mãi chia xa. Đó là nỗi đau khi con người bị cuốn vào dòng chảy bất tận của thời gian và số phận, không thể nắm giữ những điều trân quý nhất.

Ký ức – Vẻ đẹp của những gì đã mất

Vũ Hoàng Chương không chỉ đau buồn vì mất đi người yêu mà còn nâng niu từng ký ức đẹp đẽ họ từng có với nhau. Từng hình ảnh: “tóc xõa tơ vàng”, “nệm gối nhung”, “ngọn đèn hư ảo” như đưa ta vào một thế giới mộng mơ, nơi họ là “vợ chồng” của kiếp trước, một tình yêu vượt khỏi thực tại khắc nghiệt.

Dẫu chỉ là hồi ức, chúng lại đẹp đến mức khiến lòng người đọc chùng xuống, cảm nhận rõ ràng hơn sự ngắn ngủi của hạnh phúc trong cuộc đời.

Say – Một hình tượng trốn chạy thực tại

Hình tượng “say” trong bài thơ không chỉ đơn thuần là say rượu mà còn là say tình, say đời, say những giấc mộng dở dang. Khi tình yêu đã mất, “say” trở thành cách duy nhất để nhà thơ tiếp tục tồn tại trong cõi đời này:

“Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay,
Buồn mưa, trăng lạnh; nắng, hoa gầy.”

Tình yêu của họ, dù đau thương, vẫn để lại trong lòng thi nhân một nỗi nhớ cháy bỏng, làm nền cho cả cuộc sống lạc lõng sau này. Câu hỏi “Đời vắng em rồi, say với ai?” vang lên như lời tự vấn, nhưng cũng chính là lời khẳng định rằng không ai có thể thay thế được người yêu đã mất.

Niềm mong mỏi trong cái lạnh giá của xa cách

Đoạn kết của bài thơ mang đậm nét thi vị và cảm giác chơi vơi. Từng câu thơ chất chứa nỗi niềm xa cách, như “tuyết xuống phương nào, lạnh lắm không?” và “thoảng gió… trà mi động mấy bông” vừa gợi sự lạnh lẽo của thời gian, vừa thể hiện nỗi nhớ nhung đến người phương xa.

Nỗi đau vì chia ly không chỉ là câu chuyện của riêng thi nhân mà còn trở thành biểu tượng cho những tình yêu dang dở trong cuộc đời.

Thông điệp của bài thơ

Đời vắng em rồi say với ai là bài thơ của nỗi đau và sự khắc khoải, nhưng ẩn chứa trong đó là một thông điệp đẹp: Tình yêu, dù ngắn ngủi và đau thương, vẫn là điều thiêng liêng nhất mà con người có thể giữ lại trong tim.

Qua nỗi đau của Vũ Hoàng Chương, ta nhận ra rằng tình yêu không chỉ là hạnh phúc mà còn là sự chịu đựng, là nỗi nhớ mãi mãi không nguôi. Trong cuộc đời, nếu đã từng yêu, dù chỉ một lần, thì những ký ức ấy cũng đủ để nuôi dưỡng tâm hồn ta qua tháng năm.

Vũ Hoàng Chương không chỉ viết về chính mình, mà ông còn viết cho những ai đã từng yêu và mất đi người mình yêu. Để mỗi khi đọc lại, ta vẫn nghe văng vẳng trong lòng mình câu hỏi đau đáu: “Đời vắng em rồi, say với ai?”

*

Vũ Hoàng Chương: Thi Bá của nền thi ca Việt Nam

Vũ Hoàng Chương (1915–1976), một nhà thơ lớn của Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học nước nhà qua những tác phẩm giàu cảm xúc và giá trị nghệ thuật. Sinh tại Nam Định, quê gốc ở làng Phù Ủng, tỉnh Hưng Yên, ông được mệnh danh là “Thi bá” Việt Nam, với phong cách thơ trang nhã, thấm đượm dư vị hoài cổ và đậm sắc thái phương Đông.

Hành trình cuộc đời và sự nghiệp

Từ nhỏ, Vũ Hoàng Chương đã được học chữ Hán tại nhà, sau đó học tiểu học tại Nam Định và trung học tại trường Albert Sarraut, Hà Nội. Năm 1937, ông đỗ Tú tài, nhưng hành trình học vấn của ông không dừng lại ở đó. Ông từng theo học Luật, rồi Cử nhân Toán, nhưng đều bỏ dở để đi làm và theo đuổi nghệ thuật.

Trong giai đoạn từ thập niên 1940, Vũ Hoàng Chương không ngừng sáng tác và hoạt động nghệ thuật. Ông cùng các văn nghệ sĩ nổi tiếng như Chu Ngọc, Nguyễn Bính thành lập Ban kịch Hà Nội, trình diễn các vở kịch thơ như Vân muội. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tiếp tục sáng tác và dạy học, đặc biệt gắn bó với Sài Gòn từ năm 1954.

Với tài năng vượt bậc, ông đã giành nhiều giải thưởng lớn, tiêu biểu là “Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc” năm 1959 với tập thơ Hoa đăng. Ông cũng đại diện Việt Nam tham dự nhiều hội nghị thi ca quốc tế, góp phần đưa thơ ca Việt Nam đến gần hơn với thế giới.

Năm 1972, Vũ Hoàng Chương được đề cử Giải Nobel Văn học. Dù không đoạt giải, việc ông xuất hiện trong danh sách đề cử cũng là niềm tự hào lớn cho văn học Việt Nam.

Di sản văn học

Vũ Hoàng Chương để lại cho đời nhiều tác phẩm xuất sắc, gồm cả thơ và kịch thơ. Những tập thơ như Thơ say (1940), Mây (1943), Hoa đăng (1959), hay Lửa từ bi (1963) thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật ngôn từ và cảm xúc mãnh liệt. Ông còn nổi tiếng với các vở kịch thơ như Vân muội, Trương Chi, góp phần đưa thể loại này phát triển tại Việt Nam.

Văn phong của Vũ Hoàng Chương được đánh giá là vừa sang trọng, vừa thấm đượm chất nhạc. Như nhận xét của Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam: thơ ông không chỉ là sự say sưa của cá nhân, mà còn gói ghém nỗi niềm nhân sinh, với những bi kịch và ngao ngán của kiếp người.

Cuộc đời cuối cùng và dấu ấn vĩnh cửu

Cuộc đời Vũ Hoàng Chương trải qua nhiều biến cố. Sau năm 1975, ông bị bắt giam tại khám Chí Hòa và qua đời năm 1976, khép lại một hành trình đầy thăng trầm nhưng rực rỡ. Mộ phần ông hiện nằm tại nghĩa trang chùa Giác Minh, Gò Vấp, nơi lưu giữ ký ức về một thi bá lớn của Việt Nam.

Với những đóng góp vượt thời đại, Vũ Hoàng Chương không chỉ là nhà thơ, nhà văn hóa mà còn là biểu tượng cho tinh thần nghệ thuật tự do và sáng tạo của Việt Nam. Di sản của ông sẽ mãi mãi được nhớ đến như một phần không thể thiếu của nền văn học dân tộc.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *