Bài thơ Nguyên tiêu – Hồ Chí Minh

Nguyên tiêu

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

1948

*

Dịch nghĩa:
Đêm rằm tháng riêng
Đêm nay, rằm tháng riêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xanh.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, ánh trăng đầy thuyền.

1948

*

Dịch thơ:
Rằm tháng riêng
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

XUÂN THỦY dịch

*

nguyên tiêu - hồ chí minh

*

Cảm nhận về bài thơ “Nguyên Tiêu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Xuất xứ và câu chuyện sáng tác bài thơ

Bài thơ “Nguyên Tiêu” (Rằm tháng Giêng) được sáng tác vào mùa xuân năm Mậu Tý (1948) khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang bước vào giai đoạn khó khăn và đầy thử thách. Sau thất bại trong kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” với những trận càn lớn vào chiến khu Việt Bắc cuối năm 1947, thực dân Pháp buộc phải lùi bước trước ý chí kiên cường của quân và dân ta. Đầu xuân 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trung ương mở rộng, vạch ra phương hướng mới cho cách mạng Việt Nam.

Nhà thơ Xuân Thủy kể lại câu chuyện đầy xúc động về khoảnh khắc sáng tác bài thơ: sau cuộc họp ở nơi “yên ba thâm xứ” (chốn sương mờ sâu thẳm), Bác Hồ xuôi thuyền về căn cứ. Trong đêm trăng sáng và cảnh xuân tuyệt đẹp, Bác đã cảm hứng đọc:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.”

Sau đó, Bác viết thêm hai câu nữa, thành bài thơ hoàn chỉnh. Có người đề nghị Bác dịch ra tiếng Việt, và Xuân Thủy đã ứng khẩu dịch. Tuy nhiên, Bác Hồ góp ý:

“Dịch lưu loát, giữ được chất thơ, nhưng dòng thứ hai có ba chữ ‘xuân’ mà bản dịch chỉ có hai chữ ‘xuân’. Thế là ý đủ mà chữ còn thiếu.”

Về sau, bản dịch được hoàn thiện như chúng ta vẫn biết:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.”

*

Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và niềm lạc quan cách mạng

Bài thơ “Nguyên Tiêu” mở đầu bằng khung cảnh thiên nhiên mùa xuân rạng rỡ, thanh bình:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.”

Hai câu thơ như một bức tranh thủy mặc sống động, tràn ngập sắc xuân: ánh trăng tròn vành vạnh, dòng sông xuân êm đềm hòa quyện cùng bầu trời xuân rộng lớn. Hình ảnh “xuân giang”, “xuân thủy”, “xuân thiên” (sông xuân, nước xuân, trời xuân) lặp đi lặp lại ba lần chữ “xuân”, như một điệp khúc nhấn mạnh sự giao hòa, tràn đầy sức sống của thiên nhiên đất trời. Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét:

“Bài thơ toát lên vẻ đẹp thanh tao, tươi mới của mùa xuân, nhưng đó không phải là một mùa xuân bình thường, mà là mùa xuân của niềm tin, của sức sống cách mạng.”

Nếu như “Kim dạ nguyên tiêu” (đêm Rằm tháng Giêng) là thời khắc của sự viên mãn và tròn đầy trong tâm thức người phương Đông, thì với Hồ Chí Minh, ánh trăng ấy còn mang niềm hy vọng về tương lai đất nước.

*

Hình ảnh con người trong bối cảnh cách mạng

Câu thơ thứ ba chuyển từ khung cảnh thiên nhiên sang hình ảnh con người và công việc cách mạng:
“Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.”

“Yên ba thâm xứ” gợi không gian sương khói mờ ảo, bí ẩn nơi chiến khu Việt Bắc. Tại đó, giữa đêm khuya, Bác Hồ và các đồng chí vẫn bàn bạc việc quân sự, lo cho vận mệnh dân tộc. Giữa bối cảnh chiến tranh đầy thử thách, câu thơ vẫn toát lên vẻ ung dung, bình thản và phong thái tự tại của một nhà lãnh đạo vĩ đại. Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét:

“Hình ảnh Bác Hồ trong “Nguyên Tiêu” thật đẹp: một con người vừa làm cách mạng, vừa sống chan hòa với thiên nhiên, coi mọi gian khó như một phần của cuộc đời.”

Câu thơ cuối “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền” vẽ lên hình ảnh con thuyền trở về giữa đêm khuya, tràn ngập ánh trăng. “Nguyệt mãn thuyền” vừa là hình ảnh tả thực, vừa mang tính biểu tượng. Con thuyền đầy trăng ấy chính là con thuyền cách mạng, chất chứa niềm tin và hy vọng về thắng lợi trọn vẹn. Nhà thơ Chế Lan Viên từng cảm thán:

“Con thuyền đầy trăng trong thơ Bác mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng vẫn đậm khí phách cách mạng.”

*

Sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại

Bài thơ “Nguyên Tiêu” mang vẻ đẹp cổ điển của thơ Đường với kết cấu tứ tuyệt, lời thơ hàm súc, chắt lọc. Không gian “yên ba thâm xứ” và ánh trăng tròn đầy gợi nhớ đến những vần thơ của Lý Bạch hay Đỗ Phủ. Tuy nhiên, nét cổ điển ấy lại hòa quyện với hơi thở của thời đại, với phong thái lạc quan của người chiến sĩ cách mạng. Nhà phê bình Đặng Thai Mai từng khẳng định:

“Thơ Bác kết hợp hài hòa giữa tinh hoa cổ điển và lý tưởng hiện đại, như một sự nối tiếp và phát triển văn hóa dân tộc.”

*

Khoảnh khắc thiêng liêng trở thành vĩnh cửu

Dù được viết trong khoảnh khắc, nhưng “Nguyên Tiêu” đã vượt qua giới hạn của thời gian và không gian, trở thành một tác phẩm bất hủ trong nền thơ ca Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét:

“Một bài thơ viết trong đêm mà ánh trăng ấy còn ngân dài mãi, như niềm tin và tình yêu quê hương của Bác.”

Bài thơ khép lại với hình ảnh “trăng đầy thuyền”, như một khúc nhạc mùa xuân ngân vang mãi trong lòng người đọc. Ánh trăng ấy không chỉ chiếu sáng không gian thiên nhiên, mà còn soi rọi lý tưởng cách mạng, ước mơ về một tương lai hòa bình và hạnh phúc cho dân tộc.

Kết luận

Bài thơ “Nguyên Tiêu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, giữa thiên nhiên và con người, giữa thơ và lý tưởng cách mạng. Vẻ đẹp của bài thơ không chỉ nằm ở bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, mà còn tỏa sáng từ tinh thần lạc quan, ung dung của người chiến sĩ vĩ đại. “Nguyên Tiêu” sẽ mãi ngời sáng như ánh trăng rằm tháng Giêng, soi rọi tâm hồn người Việt Nam bằng niềm tin và hy vọng không bao giờ tắt./.

Viên Ngọc Quý (tổng hợp).

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *